TS. Đạo diễn Sân khấu. NSND Thanh Ngoan
GĐ Trung tâm Bảo tồn Nghệ thuật Biểu diễn Truyền thống VN
Là một người nghệ sĩ sinh ra, trưởng thành và gắn bó trọn vẹn với nghệ thuật Chèo, đồng thời là một giảng viên, một người nghiên cứu, tôi may mắn được tiếp xúc và cảm thụ trực tiếp những giá trị sâu sắc trong sáng tác của Nhạc sĩ, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Kiều. Trong dòng chảy của Chèo hiện đại, có thể nói, ông là một trong những người đặt nền móng cho một lối viết nhạc sân khấu mẫu mực, đầy sáng tạo mà vẫn giữ được bản sắc truyền thống.
Điều này thể hiện rõ nhất qua vở Súy Vân, một tác phẩm điển hình cho sự kết hợp hoàn hảo giữa hiểu biết sâu sắc về văn hóa nghệ thuật truyền thống Việt Nam và khả năng sáng tạo đỉnh cao trong âm nhạc sân khấu. Với Súy Vân, ông không chỉ vận dụng tài tình các chất liệu chèo cổ mà còn cùng ekip nâng tầm thành một vở diễn mẫu mực về âm nhạc, hát, múa, diễn – những yếu tố cốt lõi làm nên nghệ thuật Chèo.
Chúng ta đều biết, từ năm 1951 khi Nhà hát Chèo Việt Nam được thành lập các nghệ nhân tài danh của tứ chiếng chèo đã hội tụ về đây. Cùng với đó là các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ, đạo diễn hàng đầu. Họ cùng chung tay bảo tồn, phát triển nghệ thuật chèo. Trong dòng chảy ấy, về âm nhạc, có thể khẳng định: Nhạc sĩ, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Kiều là một trong những gương mặt xuất sắc nhất.
Suốt từ những ngày đầu thành lập nhà hát cho đến nhiều năm sau đó, ông không ngừng sáng tác, thể nghiệm, tìm tòi và để lại những dấu ấn đặc biệt. Nổi bật là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại – giữa kiến thức được đào tạo bài bản từ nước ngoài với vốn cổ dân tộc – để tạo nên một cách làm âm nhạc vừa khoa học, vừa thấm đẫm hồn dân gian.
Trong vở Súy Vân, điều làm tôi – với tư cách một diễn viên Chèo – vô cùng ấn tượng, là ông đã hòa quyện âm nhạc vào toàn bộ kịch bản, lời ca, tính cách nhân vật, ngôn ngữ biểu cảm… tới mức nhiều khi, tôi ngỡ mình đang trình diễn một vở chèo cổ chứ không phải một tác phẩm được sáng tác theo lối mới. Từng nốt nhạc đều thấm đẫm tinh thần Chèo, nhuần nhuyễn, khúc chiết, không có một chi tiết nào thừa hay lệch pha. Đó không còn là một vở diễn hay nữa, mà là một minh chứng sống động cho năng lực sáng tạo lớn của ông, là cuộc cách tân nhưng đầy gốc rễ – một cuộc cách mạng âm nhạc trong nghệ thuật Chèo.
Thực sự, khi tôi còn trẻ, bước chân vào Nhà hát Chèo, lần đầu tiếp cận vở Súy Vân – tôi đã lầm tưởng đây là một vở chèo cổ. Sự vận dụng âm nhạc của thầy Hoàng Kiều ở đây đạt đến mức nhuần nhuyễn, hài hòa đến từng chi tiết – khiến cho người xem, người diễn có thể cảm nhận như đang sống trong không gian chèo truyền thống đích thực.
Âm nhạc trong Súy Vân được ông xây dựng toàn vẹn, bám chặt vào tâm lý và tính cách từng nhân vật – từ Súy Vân, Kim Nham, Mụ Kim, Trần Phương đến cả những vai hề, vai Mụ Quán… Mỗi tuyến nhân vật đều có âm nhạc riêng phù hợp, nâng đỡ cho diễn xuất, cho lời thoại, cho cảm xúc – điều rất đặc biệt trong một vở chèo. Điều khiến tôi càng trân trọng hơn, đó là dù được đào tạo bài bản ở nước ngoài, ông vẫn trở về với một tinh thần gìn giữ cốt lõi truyền thống, nhưng không bảo thủ. Ông vận dụng kỹ thuật hiện đại – viết hòa âm, phối bè – nhưng tất cả đều hòa vào tổng thể một cách tinh tế, không gượng ép, không lạc lõng.
Âm nhạc của ông trong vở này không đơn thuần là phần phụ trợ, mà đã trở thành một phần linh hồn của vở diễn – góp phần tạo nên thành công rực rỡ của Súy Vân và khẳng định tài năng sáng tạo ở đỉnh cao. Sau này, khi có điều kiện nghiên cứu sâu hơn, tôi mới nhận ra Súy Vân chính là kết tinh của một ê-kíp nghệ thuật đỉnh cao thời đó – một cuộc cách mạng thực sự trong nghệ thuật Chèo. Trong đó: Giáo sư – NSND Trần Bảng (đạo diễn), nhà văn Hàn Thế Du (chấp bút), đến các nghệ sĩ như NSND Trần Minh (biên đạo múa), NSND Nguyễn Đình Hàm (họa sĩ) và âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Kiều. Một vở diễn quy tụ đầy đủ tinh hoa và ở đó, âm nhạc của thầy Hoàng Kiều chính là trục xương sống nghệ thuật, vừa kế thừa chèo cổ, vừa mở lối cho chèo hiện đại phát triển một cách bền vững.
Cả ê-kíp thực hiện vở Súy Vân đã cùng nhau tạo nên một cuộc cách mạng trong nghệ thuật Chèo từ khâu kịch bản, đạo diễn, âm nhạc đến múa và mỹ thuật sân khấu. Vở diễn này được xây dựng từ tích cổ Kim Nham, nhưng đã được tác giả Hàn Thế Du chấp bút một cách công phu. Lời thoại trong kịch bản được chọn lọc, cô đọng, giàu ngữ điệu đến mức các nghệ sĩ diễn viên chúng tôi thời đó phải “nuốt từng lời, từng hơi thở”.
Đạo diễn Trần Bảng – người khởi xướng tư duy cách tân, đã thiết kế bố cục từng nhân vật một cách chặt chẽ, không dư thừa. Ông không chỉ đạo diễn đơn thuần, mà còn đưa ra một tư tưởng mới: bênh vực, tôn vinh người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhân vật Súy Vân không còn là hình tượng phụ thuộc, yếu đuối, mà trở thành tiếng nói phản biện xã hội, đả phá chế độ trọng nam khinh nữ, đề cao quyền được yêu, được sống đúng bản ngã của người phụ nữ. Đó là một tư tưởng tiến bộ, cách mạng và nó cần được truyền tải qua mọi ngôn ngữ nghệ thuật, từ lời thoại, diễn xuất, đến âm nhạc và múa.
Chính vì vậy, âm nhạc của Nhà giáo Nhân dân Hoàng Kiều giữ vai trò trung tâm trong vở diễn. Ông không chỉ viết nhạc minh họa như chèo cổ, mà đã chủ động sáng tác nhạc nền, mang tính biểu hiện nội tâm cho từng nhân vật. Âm nhạc của ông không tách khỏi kịch bản mà hòa quyện, nâng đỡ cảm xúc nhân vật, đặc biệt là nhân vật Súy Vân, vốn rất khó thể hiện. Trước đó, trong chèo cổ, phần nhạc thường chỉ là tấu trống, phách, hoặc theo các làn điệu dân gian có sẵn. Nhưng trong Súy Vân, ông đã đưa vào khái niệm “nhạc nền”, kết hợp giữa cấu trúc âm nhạc hiện đại và tinh thần dân tộc – một điều chưa từng có trong lịch sử chèo truyền thống.
Về mặt phương pháp biểu diễn, đạo diễn Trần Bảng cũng đã mạnh dạn vận dụng kỹ thuật biểu hiện theo phương pháp của Stanislavski, tức là không diễn theo lối minh họa hay kể chuyện một chiều nữa, mà đi vào chiều sâu nội tâm nhân vật, đòi hỏi sự phối hợp rất chặt chẽ giữa âm nhạc – động tác – tâm lý. Và theo tôi, âm nhạc của Hoàng Kiều đã trở thành một trong những yếu tố cốt lõi giúp thực hiện thành công phương pháp biểu diễn này.
Ngay từ cảnh mở đầu, âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Kiều đã gây ấn tượng mạnh. Ông không chỉ “làm nhạc” để dẫn vào cảnh, mà thực sự đã kiến tạo một trường lực nghệ thuật, mở ra một không gian đầy dự cảm. Ngay câu hát đầu tiên “Nên tôi phải lụy đò” của nhân vật Súy Vân vang lên không chỉ bằng tiếng hát mà bằng cả một tầng sóng ngầm âm nhạc phía dưới như một lời báo trước về những xung đột, bi kịch và đấu tranh nội tâm dữ dội của nhân vật.
Âm nhạc ấy không chỉ ngọt ngào, mượt mà theo lối chèo truyền thống mà còn ẩn chứa những biến động âm thanh, khiến khán giả ngay từ phút đầu cảm thấy sẽ có điều gì đó khủng khiếp xảy ra trên sân khấu này. Và quả thật, đó không chỉ là một câu chuyện kể đẹp mà là một “bi kịch hóa” trong hình thức Chèo cổ.
Ngay trong phần mở màn đó, Hoàng Kiều đã phối hợp nhiều lớp bè, đưa vào các yếu tố hòa thanh hiện đại, sử dụng phong phú nhạc cụ dân tộc từ sáo, tiêu, đàn bầu đến đàn hồ và cả những cách khai thác sử dụng bộ gõ vượt ra ngoài khuôn mẫu truyền thống. Tất cả được kết hợp một cách nhuyễn với làn điệu Chèo như “Quá giang”, khiến cho phần nhạc nền vẫn đậm chất Chèo, mà vẫn mở ra một không gian âm nhạc mới mẻ, giàu kịch tính.
Một điểm nhấn đáng chú ý là cách ông sử dụng bè phối. Trước đây, trong truyền thống hát chèo, nam thường “vói”, nữ thường “luồn” – tức là lối hát đơn tuyến, thiên về đơn âm. Nhưng trong Súy Vân, Hoàng Kiều đã chủ động phối bè ngay từ các phần hát chính, mở đầu cho cách tiếp cận đa thanh, đa tầng trong âm nhạc Chèo hiện đại. Ví dụ, ngay cảnh Súy Vân ngồi chờ chồng khi nhân vật cất lên bài Tò vò: “Ngày ngày dệt cửi thiếp lại quay tơ…” ông đã đưa đồng ca vào để hỗ trợ nhân vật chính. Súy Vân vẫn hát solo giữ vai chính, nhưng các nghệ sĩ nữ khác đảm nhận bè phụ tạo nên hiệu ứng âm nhạc như một tiếng vọng, tiếng đế, vừa nền nã, vừa đẩy cảm xúc của nhân vật lên cao.
Việc phối bè trong chèo không làm mất đi bản sắc chèo, mà ngược lại, nâng tầm diễn xuất, mở rộng chiều sâu cảm xúc. Đặc biệt, phần bè không chỉ chia làm hai lớp, một lớp theo giai điệu chính của Súy Vân, một lớp nâng cao trào, mà còn được sắp đặt để tạo hiệu ứng như những “sóng ngầm”. Những bè nữ khi hòa vào đoạn solo của Súy Vân không chỉ giúp tô điểm mà còn như những tiếng nói nội tâm vọng lại, làm sâu sắc thêm cuộc đấu tranh bên trong nhân vật. Đây chính là điểm đột phá.
Vẫn là làn điệu Tò vò, vẫn là lời cổ, nhưng trong cách xử lý âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Kiều thì tất cả đã được đưa lên một tầm vóc khác. Ở đó, không còn là một màn solo đơn độc của Súy Vân chờ đợi người chồng trở về nữa mà là tiếng lòng đại diện cho rất nhiều người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, những người từng trải qua cảnh ngộ giống như Súy Vân: chờ đợi, thủy chung, mỏi mòn, và nhiều khi là vô vọng.
Khi dàn nữ đồng ca được đưa vào, làm thành bè hai hỗ trợ cho giai điệu chính, ban đầu chúng tôi (các diễn viên) còn bối rối. Nhưng sau khi được học, được thực hành và cảm nhận sâu sắc, chúng tôi mới thấy rõ cái giá trị kỳ diệu mà sự phối bè đó mang lại. Nó không làm mất đi chất cổ, chất truyền thống của Chèo. Ngược lại, chính sự hòa quyện đó làm tăng chiều sâu cảm xúc, tăng tính biểu tượng. Nhờ thế, bài hát Tò vò không còn là lời độc thoại nội tâm của một nhân vật, mà trở thành một thông điệp nghệ thuật, một bản ngợi ca và cũng là lời ai oán cho bao số phận người phụ nữ Việt Nam xưa kia.
Cái hay nữa là, tuy có thêm phối khí và bè, nhưng âm nhạc của ông vẫn giữ nguyên cái cốt cách của chèo: giai điệu, tiết tấu, cách thở và cách dựng câu vẫn đậm đà truyền thống. Cái mới mà ông mang lại là ở tư duy âm nhạc vừa hiện đại trong cách tổ chức chất liệu, nhưng vẫn cổ kính trong màu sắc âm thanh. Và điều đó, tôi nghĩ, là tài năng rất riêng của thầy Hoàng Kiều.
Rộng hơn một chút, với làn điệu Tò vò qua cách sáng tạo của ông đã biến Súy Vân không chỉ dừng lại với tư cách là một nhân vật sân khấu, cô đã trở thành một biểu tượng phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nỗi chờ đợi của Súy Vân là tiếng nói chung của biết bao người vợ trong xã hội cũ: lo toan, vất vả, cam chịu, nhưng vẫn thủy chung và hy sinh.
Nếu có thời gian để phân tích từng cảnh, từng đoạn một thì còn rất nhiều điều để nói. Nhưng ở đây, tôi xin nhấn mạnh thêm về một trường đoạn rất hay: Trước khi Súy Vân bước vào phần “giả dại”, thì âm nhạc một lần nữa lại phát huy tối đa vai trò truyền tải cảm xúc. Đó là lúc bài Tò vò mày nuôi con nhện vang lên, lần này là do dàn nữ thể hiện hoàn toàn, không còn vai trò hát solo nữa. Và chính khoảnh khắc này, người ta mới thực sự cảm nhận được cái đẹp của âm nhạc Chèo. Đẹp trong bi thương, đẹp trong sự thăng hoa của cảm xúc. Bài hát như một lời tả nỗi đau, nỗi khát khao của những người phụ nữ, họ không chỉ là nhân vật trên sân khấu, mà là hình ảnh của cả một lớp người từng âm thầm chịu đựng dưới gót giày của lễ giáo phong kiến.
Câu hát: “Tò vò mày nuôi con nhện, đến ngày sau nó bỏ nó đi” vốn đã mang hàm ý về sự hi sinh vô vọng nay được nhấn sâu hơn qua cách hòa âm của thầy. Cả bài hát trở thành một bản bi ca nhưng không u ám, mà đầy sức lay động. Nhờ vậy, vai Súy Vân và rộng hơn là tiếng nói của người phụ nữ trong nghệ thuật Chèo được tôn vinh và thăng hoa một cách rõ rệt.
Tôi còn nhớ rõ hai đoạn nhạc nền điển hình. Một là khi Kim Nham trở về. Chàng nói: “Dù nàng muốn hay không, người trao tặng khăn hồng cũng sẽ theo ta về vinh quy bái tổ.” Lúc ấy, Súy Vân như choáng váng, vì nàng chỉ thử lòng chàng thôi mà chàng lại nghi kỵ, không hiểu lòng nàng. Giai điệu của thầy Kiều lúc đó thể hiện rất rõ bước chân đau khổ, lầm lũi của Súy Vân. Rồi Súy Vân quay đầu như muốn ngã, tiếp là bước chân trong tuyệt vọng…Nàng nói “Người tặng chằng chiếc khăn hồng sẽ theo về vinh quy bái tổ, còn Súy Vân này sẽ đứng ngồi một xó, thân làm vợ cả nhưng hóa con đòi …”. Không có bản tổng phổ trong tay, nhưng tôi vẫn nhớ từng nét nhạc, nhớ từng giai điệu, từng âm sắc nhạc cụ đúng khoảnh khắc đó, Súy Vân quay đầu như muốn ngã. Ngẫm mà thấy, bao nhiêu công sức, bao nhiêu hy sinh nhưng cuối cùng thì rơi vào tình cảnh như vậy. Người phụ nữ ấy đâu có tội tình gì mà cuối cùng, vẫn bị phụ bạc, vẫn phải chấp nhận số phận nghiệt ngã trong xã hội phong kiến. Chính những bước chân ấy và âm nhạc ấy đã nói lên tất cả. Nó gói gọn thân phận người phụ nữ thời xưa trong một khúc nhạc lặng, trầm và day dứt. Chúng tôi, diễn viên khi diễn đoạn đó, cũng cảm thấy xúc động vô cùng. Vì đó là một sự kết hợp toàn vẹn giữa hát, thoại, diễn xuất, múa và âm nhạc. Và khi các yếu tố ấy hòa quyện, người nghệ sĩ trên sân khấu cũng cảm thấy mãn nguyện, thỏa mãn một cách trọn vẹn.
Có thể nói, khi viết nhạc cho vở chèo Súy Vân nhạc sĩ Hoàng Kiều được tin tưởng và trao quyền sáng tạo tuyệt đối cho nên ông đã thỏa sức thể nghiệm trong biên soạn âm nhạc. Không chỉ dùng những bài ca cụ thể, mà ở một số cảnh tiêu biểu, như cảnh 5, khi Súy Vân chờ Trần Phương ở bến sông mà chàng không đến nhạc sĩ đã dùng hẳn cả dàn nam (đồng ca nam) để hát làn điệu Tải Lương nhưng đã được bẻ làn, nắn điệu, đặc biệt là phần âm nhạc đệm. Giai điệu ấy trầm lắng, sâu sắc, mô tả sự cô đơn lẻ bóng, tuyệt vọng đến tận cùng của Súy Vân – người con gái cứ ngỡ sẽ gặp lại người mình hẹn từ giờ Thân, mà nay đã sang giờ Dậu vẫn không thấy bóng dáng. Trước khi cảnh đó bắt đầu, âm nhạc chỉ là một nét nhấn rất nhẹ, trầm xuống tựa như một hơi thở dài rồi dàn đồng ca nam cất lên. Nó hòa quyện, nhập thân vào cảnh diễn, khiến cảm xúc khán giả được dẫn dắt sâu sắc và rất tự nhiên. Tôi phải nói, nhạc sĩ Hoàng Kiều sáng tác “trúng”, “đúng”, nó đã hỗ trợ sâu cho diễn xuất của nhân vật và tình huống sân khấu.
Tiếp nữa là đoạn nhạc nền cho nhân vật Súy Vân sau khi bộ mặt thật của Trần Phương lộ tẩy. Âm nhạc và lời thoại nổi lên như một lời tự vấn: “Trời xanh hỡi! Ta là con chim lạc lối. Biết đi đâu? Về đâu? Hỏi ai?”. Đây không còn là tiếng hát của một nhân vật nữa mà là tiếng nói lạc lõng của một phận người. Tại sao một người phụ nữ, một người vợ, một con người sống đúng với đạo lý lại phải chịu đựng tất cả những đau khổ này? Âm nhạc ở đoạn này như dẫn lối cho khán giả vào mê cung tâm trạng: Bước chân của Súy Vân không còn hướng. Mắt nhìn đời như phủ sương. Tình yêu tan vỡ, gia đình không còn, danh tiết bị vùi dập.
Than ôi!Còn gì để níu giữ nữa. Cuối cùng, cô chọn cái chết. Không phải để chạy trốn, mà để gột rửa, để lên án. Chết – như một lời kết cho chuỗi ngày sống không bằng chết. Như một bản cáo trạng gửi đến xã hội phong kiến quá bất công “trọng nam, khinh nữ”, mà trong đó, người phụ nữ như Súy Vân chỉ là một trong vô vàn những số phận bi thương. Nhạc nổi lên, câu hát cuối cùng: “Thì ra toàn phường gian ngoan, bạc ác, sống sang giàu. Những giống đen đầu, chỉ thương thời bác mẹ sinh tôi bước nhầm một bước vào nơi gấm vóc, nước mắt rắc trên son vàng quyện lấy, tơ vương vườn sau ngõ trước, cao xanh nhờ người chứng giám cho, tấm lòng con uất hận muôn phần, nhờ dòng nước gửi thân…”. Cô bước đến bờ sông, một tay cầm lạng vàng, một tay cầm chiếc nón… rồi tất cả buông trôi theo dòng nước. Âm nhạc của nhà giáo nhân dân Hoàng Kiều đã hóa thân cùng số phận nhân vật. Và với tôi, đó không còn là nhạc nền nữa, mà là một linh hồn – linh hồn của bi kịch, của cảm thông, của lên án, của nghệ thuật chèo đỉnh cao.
Nhưng âm nhạc không thể tự phát huy hết sức mạnh nếu thiếu một ê-kíp đồng bộ. Một tập thể sáng tạo mà từng cá nhân đều là bậc thầy. Chúng tôi, những người diễn viên, khi vào vai, mới thấy rõ rằng: không thừa một nốt nhạc, không dư một câu thoại. Thậm chí hơi thở nhanh hay chậm cũng không thể làm tùy tiện. Mọi thứ đều ăn khớp đến từng nhịp một.
Cá nhân tôi, khi mới vào Nhà hát, tôi vẫn tưởng Súy Vân là vở chèo cổ. Tôi nhầm, và không phải chỉ mình tôi nhầm. Nhiều khán giả cũng tưởng như vậy, bởi nó hay quá, đúng quá, nhuần nhuyễn quá. Chỉ sau này, khi bắt đầu đi sâu nghiên cứu chèo, tôi mới hiểu: Đó là một vở Chèo hiện đại, mới hoàn toàn nhưng chính vì được xây dựng với tinh thần dân gian, với cấu trúc cổ điển, với tình yêu truyền thống thực sự nên nó có cái vẻ đẹp bền bỉ, khiến người ta dễ ngỡ như Chèo cổ. Và từ đó, tôi yêu vở diễn, yêu Nhà hát Chèo Việt Nam, yêu những con người đã làm nên nó. Yêu luôn cả thầy Hoàng Kiều, người đã đưa âm nhạc chèo lên một tầm cao mới. Đỉnh cao của sự sáng tạo, tôi nghĩ là đây: vở Chèo Súy Vân. Đỉnh cao không chỉ được tạo nên bởi riêng phần âm nhạc, mà là toàn bộ ê-kíp.
Với thực tế sân khấu ngày nay, nhiều nhạc sĩ đang cố gắng sáng tạo làm mới các vở diễn. Nhưng có lẽ, đã đến lúc nên dừng một chút, để nhìn lại một tác phẩm như Súy Vân. Ở đó, sự sáng tạo không nằm ở chỗ lạ lẫm mà nằm ở chiều sâu. Chiều sâu của một ê-kíp đã quá hiểu chèo, quá hiểu nghệ thuật truyền thống và đặc biệt quá hiểu khán giả. Ngay từ thời điểm đầu họ đã không đi theo lối mòn nhưng cũng không cắt rời khỏi gốc rễ của nghệ thuật chèo. Chính vì thế, những sáng tạo ấy đã trở thành nền tảng. Trở thành mẫu mực.
Đóng góp của những thế hệ bậc thầy khiến chúng ta tự tin một điều không phải đến hôm nay mới có sáng tác mới trong chèo. Ngay từ những năm 1951–1952, khi Nhà hát Chèo Việt Nam được thành lập, đến 1958 bắt đầu dựng vở, và đến năm 1962 khi vở Chèo Súy Vân ra đời và lập tức được đánh giá là một kiệt tác. Một kiệt tác về tổng thể và cả riêng ở phần âm nhạc. Nhạc sĩ Hoàng Kiều và ê kíp với những bậc thầy không chỉ đi đầu trong trong việc làm mới mà không mất chất chèo, mà còn tạo nên một mẫu mực, tạo nên những khuôn vàng thước ngọc cho thế hệ sau.