“Tìm lại chốn xưa về làng Cựu/ Biệt thự rêu phong nét phồn hoa/ Giữa xứ đồng chiêm mà lưu giữ/ Bao ngôi nhà cổ thấm hồn ta.”
4 câu thơ của tác giả Cao Phúc dắt tôi và nhóm bạn văn về phía Nam ngoại thành Hà Nội cùng với những phập phồng, thấp thỏm vì đó là chuyến du hành ngẫu hứng, không có trong kế hoạch, lại đúng dịp thời tiết rất hay “đánh úp” người đi đường. Thấy những hạt mưa nhỏ bằng hạt bụi hùa nhau tới tấp đậu trên cửa kính xe, tôi chột dạ nghĩ đến một trận mưa rào đang rình rập ở nơi nào đó, chực chờ chúng tôi bước ra là ào ào dội xuống.
“Huyện Phú Xuyên xưa kia có một cậu bé nghèo, kiếm sống bằng nghề cắt cỏ chăn trâu. Một ngày, trong lúc cậu đang mải mê làm việc thì bầu trời chuyển màu, mây đen tứ phương ngùn ngụt kéo đến. Giữa chốn đồng không mông quạnh, cậu bé không tìm được nơi nương náu nên đã bị sét đánh trúng. Cậu bé này, chẳng những “sét đánh không chết” mà về sau còn trở thành người đàn ông giỏi giang lẫy lừng xứ đồng chiêm.” Nhà thơ Cao Phúc bật cười khi nhắc giai thoại về chính mình. Ông giải thích với chúng tôi rằng đó là câu chuyện tưởng tượng mà một thanh niên ở quê nhà kể cho ông nghe. Dẫu vậy, mấy chuyện vụn của ông đã kéo tôi về thực tại, hoan hỉ và tận hưởng chuyến đi với rất nhiều điều thú vị ở phía trước. Cao Phúc có năng khiếu thơ từ nhỏ. Vì thế những năm tháng tuổi trẻ, ông lên đường vác súng chiến đấu nhưng chưa bao giờ rời cây bút. Có người nói rằng cuộc đời Cao Phúc gắn bó với ba chữ “Làm”: làm lính, làm quan và làm thơ. Còn tôi, khi được tiếp xúc với ông, tôi thấm thía thêm hai chữ: làm người. Dễ hiểu vì sao Cao Phúc được người Phú Xuyên yêu quý đến nỗi sáng tác cả giai thoại về thời thơ ấu của ông. Nói Cao Phúc đánh thức vùng quê trăm nghề, thật không ngoa chút nào. Thực tế, ông đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho biết bao nhiêu bạn bè, đồng đội, đồng nghiệp bằng tấm lòng và sự tử tế, theo đúng nghĩa của từ này. Công việc cho ông cơ hội đi nhiều, biết nhiều và thấu cảm với mỗi số phận mà ông từng gặp. Thời còn làm Giám đốc Sở Du lịch Hà Tây, Cao Phúc luôn quan tâm đến việc tuyên truyền quảng bá về vùng đất này. Ông đã tạo dựng được “Du lịch làng nghề”, mang đến công ăn việc làm ổn định, bền vững cho người dân nơi đây. Giỏi giang, hào sảng mà dung dị, đó là cách mà người Phú Xuyên nhớ đến nhà thơ Cao Phúc, và cũng là lý do để tôi luôn cảm thấy quý trọng ông.

Năm 2025, nhà thơ Cao Phúc chào đón tuổi 75, nhưng nguồn năng lượng vô tận và tính cách dí dỏm khiến ai tiếp xúc cũng thấy ông còn rất trẻ. Nhân chuyến du xuân ngẫu hứng, ông chỉ đường cho tài xế đưa chúng tôi về làng Cựu, một ngôi làng cổ hàng trăm năm tuổi, thuộc xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên. Cao Phúc sinh ra ở làng Đại Đồng, kế bên làng Cựu, nhưng ông có tình cảm đặc biệt với nơi này. Lời kể của ông khiến tôi càng sốt ruột, mong ngóng thời khắc được đặt chân đến ngôi làng chứng kiến biết bao đổi thay của thời cuộc và giờ đây đang cõng thêm sứ mệnh lưu giữ giá trị hoài cổ, trầm mặc của những năm tháng thế kỉ XX. Hàng cây xà cừ cổ thụ đan chặt vào nhau tạo thành bức tường xanh mướt mải ru chúng tôi vào con đường nhỏ quanh co, báo hiệu rằng “ngôi làng cổ tích” đang ở rất gần. Cửa xe khép chặt mà tôi vẫn ngửi thấy hương vị nồng đượm dìu dịu chỉ có ở những làng quê thuần túy. Đây rồi! Mảng tường cổ kính núp trong tấm áo rêu đã chuyển sang màu xám ngả mình nghênh đón làm mấy lữ khách trong đoàn sững sờ vì xúc động. Dáng vẻ xiêu vẹo mà kiêu hùng của nó như đang thách thức thời gian, khiến tôi nghĩ đến tòa tháp nghiêng Pisa – một biểu tượng kiến trúc kỳ lạ của nước Ý.
Nhà giáo, nhà thơ Bùi Xuân Mệnh là bạn thân của nhà thơ Cao Phúc, khi biết chúng tôi ghé chơi thì lập tức chạy sang làng Cựu để tiếp đón. Đọc vị đoàn khách từ Thủ đô về rất hào hứng khám phá nhan sắc độc lạ, Bùi Xuân Mệnh dẫn chúng tôi sang bên chị ruột của ông – người đang sở ngôi nhà trăm tuổi. Ở đây, rêu giống như một tấm vải khổng lồ trùm lên tường, lên cổng, phủ khắp nhà, bọc kín cả ngôi làng. Người thường nhìn thấy rêu thì sẽ nghĩ đến trơn trượt, nhưng ở làng Cựu, rêu là họa tiết đắt giá, là điểm nhấn cho những công trình kiến trúc được xây dựng theo phong cách châu Âu mà vẫn giữ được nét truyền thống kiến trúc Việt Nam. Bước qua cánh cổng nhỏ, tim tôi co lại trước kiệt tác mái nhà kiểu Gothic theo lối kiến trúc Phục Hưng phương Tây, nhưng bên cạnh lại là hai hàng câu đối chữ Hán – Nôm thân thuộc. Những ngôi nhà ba gian hai chái với sân vườn, nổi bật với hoa văn được chạm trổ tinh xảo trên mái, trên các cột trụ gỗ lim, hình hoa sen, hình đắp nổi tinh tế cùng những họa tiết kiểu Âu trên cửa sắt, cửa sổ hoà hợp với nhau thành một tổng thể chiều mắt người ngắm. Đến làng Cựu, ai mê đắm nhà cổ sẽ được thỏa thích chiêm ngưỡng rui ngang, mè dọc, hay những tấm xà lực lưỡng, chắc khỏe, được ví là phần xương sống không thể thiếu để làm khung kèo mái ngói. Từ bậc tam cấp, tôi thả chân xuống khoảnh sân được lát bằng những viên gạch gan góc làm từ đất nung ở nhiệt độ cao, mà ngỡ mình vừa trở về quá khứ, xộc thẳng vào không gian của thế kỉ trước. Thời gian đã kịp phủ lên mặt sân tầng tầng lớp lớp rêu phong. Tiếng xì xào nhè nhẹ trên đầu xui tôi ngước lên ngắm những chùm quả mòng mọng bung ra từ cây hồng xiêm lâu năm. Đứng cạnh cây hồng xiêm là cây bưởi ở độ đơm hoa đang miệt mài chiết xuất hương thơm rúc rích một góc vườn.


Tôi như kẻ mộng du lần theo dấu chân của Nhà thơ Cao Phúc, nhà thơ Bùi Xuân Mệnh và nhóm bạn văn ghé thăm một xưởng đóng giày, cũng là một ngôi nhà cổ. Đối lập với vẻ đẹp cũ kỹ, hoang tàn của ngôi nhà là những mái đầu nhuộm cam, nhuộm đỏ của mấy bạn trẻ Gen Z kèm với tiếng nhạc thời thượng giàu năng lượng, dồn dập phát ra từ chiếc điện thoại mỏng dính. Họ là thợ đóng giày. Đứng trước khung cảnh này, tôi mới hiểu khoảnh khắc rung động của nữ nhân vật trong phim “A tourist’s guide to love” lúc cô đặt chân đến Thánh địa Mỹ Sơn – quần thể kiến trúc kỳ bí ngự tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Bộ phim kể về hành trình chữa lành trái tim của một cô gái phương Tây khi đến Việt Nam. Nếu như “A tourist’s guide to love” mang đến cho khán giả những thước phim sống động, tái hiện vẻ đẹp hàng loạt danh lam thắng cảnh Việt Nam dưới lăng kính của nhà làm phim Âu Mỹ, thì tôi, khi đứng trước ngôi nhà cổ ở làng Cựu, lại có cảm giác mình đang được thưởng thức khúc hoan ca của thời gian, nơi quá khứ và thực tại bện vào nhau một cách nhịp nhàng, du dương, đạt đến độ hoàn mỹ. Cách mà những người trẻ ở làng Cựu trân trọng và gìn giữ quá khứ càng khiến tôi kinh ngạc. Tay họ thoăn thoắt quét màu lên những miếng da, dán keo vào đế, lồng giày vào khuôn,… mà chẳng bận tâm những chiếc lá khô đã vương thành đống trên bàn, cũng không để ý khung cửa ra vào bị mối ăn mòn gần hết và cũng chẳng thấy phiền khi tấm mành che nắng đã mục ruỗng. Có cảm giác, bụi ở đây, dẫu chất chồng bao nhiêu lớp, vẫn được nâng niu như một nét chấm phá cho vẻ đẹp cổ kính của cả ngôi làng. Thời gian ngưng đọng dưới dạng rêu, bụi và sự tan rã của đồ vật, tạo nên vẻ đẹp khiến tất cả chúng tôi bàng hoàng. Làng Cựu trong mắt tôi không khác gì một bức tranh được cất trong bảo tàng. Năm tháng càng nhiều, tranh càng có chiều sâu và càng quý giá. Lúc này tôi đã giải mã được nỗi lòng của nhà thơ Cao Phúc, tuy không sinh ra ở làng Cựu, mà lại yêu làng Cựu đến thế. Ngay cả tôi và những người bạn văn, lúc đặt chân đến đây, mới thấy thán phục đôi mắt tinh tường của một nhóm chuyên gia truyền thông người Ý khi họ chọn nơi này làm không gian trình diễn nhạc jazz.
Đã lâu rồi, người làng Cựu không còn ăn gạo sùng – loại gạo rẻ tiền vùng chiêm trũng. Và có lẽ một thời gian ngắn nữa thôi, những sự kiện văn hóa giải trí được dàn dựng bởi khối óc và đôi tay của người phương Tây trở nên rầm rộ, làng Cựu sẽ nổi tiếng hơn. Nhưng cũng từ đây, người làng Cựu sẽ phải lựa chọn khi đứng giữa ngã ba đường – giữa quá khứ, hiện tại và tương lai: làm thế nào để hòa nhập với công nghệ luôn đổi thay, thực hiện những khám phá mới đồng thời bảo tồn các yếu tố từ nền văn hóa cổ xưa; phải làm sao để gìn giữ sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại, cũng như cách chúng có thể tồn tại song song. Đó là một bài toán không dễ tìm đáp án.
Thủy Kiều