Nếu cần tìm một giọng thơ nữ bước đầu trình hiện thi đàn đã mang sẵn dấu ấn riêng – vừa mảnh mai, vừa kiên cường; vừa mê mộng, vừa tỉnh táo – thì Hà Hồng Hạnh và Đối thoại với bóng (NXB Hội Nhà văn, 2025) là một bắt gặp thú vị. Cái tên tập thơ tự thân đã là một ẩn dụ nghệ thuật: nhà thơ không “đối thoại” với thế giới, với tha nhân, mà “với bóng” – tức là với phần khuất, phần ẩn của chính bản thân.
Trong bài thơ mở đầu, Hai mặt của sự sống, Hà Hồng Hạnh viết: phía sau gương mặt người/ đâu thiện/ đâu ác/ có rạch ròi như ông Thiện ông Ác trên chùa. Câu hỏi về thiện – ác, thật – giả, vốn là truy vấn của triết học và tôn giáo, nay được một nữ thi sĩ đặt lại bằng trực cảm. Và khi chị thừa nhận khóc cười giữa mông lung vụn vỡ/ những thứ nâng niu gìn giữ/ hóa ra rỗng tuếch từ lâu,thì đó không chỉ là sự sụp đổ của niềm tin, mà còn là một thức nhận: đời sống – tình yêu – nghệ thuật, rốt cuộc đều trống rỗng phù du. Bóng dáng của “người đàn bà nhặt bóng mình đêm trăng” trong bài Bóng mình chính là hóa thân của cái tôi thi sĩ đang chật vật tìm lại căn cước đã bị “vụn vỡ” giữa “mông lung” thời gian đời người vừa dài dặc vừa ngắn ngủn.

Nơi Đối thoại với bóng, hình tượng “bóng” xuất hiện dày đặc (bóng mình, chiếc bóng, những chiếc bóng nghẹt thở, chiếc bóng của đêm, trò chuyện với chiếc bóng…) như một từ khóa chủ đạo. “Bóng” không chỉ là cái còn lại sau ánh sáng, mà còn là phần vô thức, phần ẩn ức, phần phản chiếu của linh hồn. Nhà thơ đối thoại với “bóng” là đối thoại với những mảnh bản ngã đã bị phân rã, là nhặt và khâu lại một thời thiếu nữ đắm say chưa kịp đi hết.
Ở bài Trò chuyện với chiếc bóng, Hà Hồng Hạnh viết: chiếc bóng không hình thù bóp nghẹt trái tim…/ nham nhở những giấc mơ không rõ mặt…/ em tìm chiếc bóng của anh/ không có hình hài, không nắm bắt… Ở đây, “bóng” không chỉ là cái tôi phân thân, mà còn là người kia, là tình yêu, là ký ức… từ bao giờ đã trở thành một phần tất yếu, mơ hồ mà vĩnh viễn, trong ngăn hồn nữ thi sĩ.
Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật, trong lời dẫn đầu tập thơ, đã gọi ra ở Hà Hồng Hạnh sự cô đơn trong sáng và thánh thiện. Nếu đọc chậm, sẽ nhận ra mạch ngầm xuyên suốt thi tập là cô đơn được thăng hoa thành mĩ cảm. Nhiều bài thơ như được viết từ ranh giới giữa nức nở và dịu dàng. Cái “vỡ” trong thơ chị không tan tành mà lấp lánh như thủy tinh dưới nắng: tháng năm mải miết gom vụn vỡ những ngày xa…/ như mảnh vỡ thủy tinh sắc nhọn… (Mảnh vỡ thủy tinh). Nỗi đau được hình tượng hóa thành “thủy tinh” – trong suốt nhưng dễ vỡ, sắc bén nhưng đẹp đẽ. Hà Hồng Hạnh không chỉ “mơ” mà còn “giải phẫu giấc mơ”, nhìn thẳng vào mảnh vỡ và chấp nhận nó.
Thơ trong tập thơ này được viết bằng ngôi thứ nhất, giọng tâm sự, thậm chí thủ thỉ như nhật ký. Nhan đề Niềm vui cô đơn đã nói lên thái độ sống của tác giả: biến cô đơn thành niềm vui, vì chỉ trong cô đơn, người thơ mới không bị vong thân: buông tay/ lòng em không còn đau/ nhưng mỗi khi đêm xuống em lại tìm anh trong mỏi mòn vô thức. Đó không phải sự yếu đuối, mà là hình thức của sức mạnh nội tâm: dám chất vấn những mâu thuẫn đa mang đa sự của chính mình.
Một thi ảnh ám ảnh nơi thi tập là “mưa”. Mưa trong đây không chỉ là hiện tượng, mà còn là tâm trạng. Trong Mưa khiêu vũ, mưa “khiêu vũ với bóng đêm”, hòa vào “mùi hương trinh khiết của đoá sen khép nhụy” – hình ảnh vừa gợi dục tính, vừa tinh khiết, thể hiện năng lượng sống mãnh liệt của người đàn bà. Và trong Mong manh & mong manh, chị tự soi vào đời mình: em hiểu đời em mong manh như giọt mưa/ mong manh/ và mong manh. Cái điệp ngữ ấy như nhịp thở, như tiếng ngân cuối của bản nhạc, nơi mà nỗi buồn đạt tới vẻ đẹp trong suốt.
Giấc mơ được Hà Hồng Hạnh khai thác đến tận cùng. Trong Có khi nào giấc mơ gian dối, giấc mơ trở thành nơi trú ẩn và thử thách: đã có lúc em ước anh không tồn tại/ để nỗi đau tan biến/ nhưng khi chìm trong vô thức/ lại điên cuồng tìm anh. Cái “gian dối” của giấc mơ không phải là phản bội, mà là nghịch lý của tâm hồn: muốn quên để được bình yên, nhưng lại khát khao nhớ để còn được thở. Ở đây cho thấy bản lĩnh của một người nữ không ngừng “đối thoại” với chính mình, nhận ra rằng tình yêu, trong bản chất, là trò chơi dung dăng giữa quên và nhớ, giữa tan và hiện, giữa buông và níu.
Một trong những điểm nhấn khiến Đối thoại với bóng vượt ra khỏi vùng thơ “anh anh em em” thuần túy là sự hòa quyện giữa cảm thức nữ giới và cảm thức văn hóa dân tộc. Trong Câu then thắm sắc bjoóc mạ, ta bắt gặp giọng điệu dân ca Tày hòa cùng nhịp thơ hiện đại: nợ trần gian chưa hết/ câu then đưa về Mường Đẳm xa xôi/ đi hết một vòng đời/ mỗi chặng đường hóa điệu quê tha thiết. Tình yêu ở đây không còn là lứa đôi riêng tư, mà đã hóa thành tình quê, tình đất, tình người. Cái “nợ trần gian” được nói bằng giọng kính ngưỡng, khiến bài thơ như một khúc then cúng hồn, vừa nhân bản vừa huyền diệu.
Không gian miền núi, văn hóa Tày – Nùng, sắc thái Bắc Kạn, Tam Đảo… trở đi trở lại, làm nên tầng địa lý tinh thần của tập thơ. Tam Đảo trong bài thơ cùng tên là nơi hương chè sóng sánh/ ngọt chát đầu môi, vừa thực vừa mộng; là nơi thiếu phụ nhìn cơn mưa nặng hạt/ ngọn lửa tình yêu đã tắt, một biểu tượng cho ngọn lửa nữ tính âm ỉ, khó nguôi. Anh có nhớ lời nguyền bên suối là khúc tình ca của người sơn nữ giữa không gian Bắc Kạn huyền thoại: anh còn nhớ lời nguyền bên suối nhỏ/ cùng em về đầu nguồn sông Cầu…/ nhấp một lần để say một kiếp. “Then”, “slương”, “xà tích”, “khèn môi”… không chỉ là chất liệu dân gian, mà còn là linh hồn văn hóa, nơi cái tôi nữ hiện đại tìm được điểm nương tựa, niềm cứu rỗi.
Thơ Hà Hồng Hạnh, như đã thấy, không ngại đi vào vùng “mơ hồ, huyễn hoặc”. Ở đó, ký ức, giấc mơ, hiện tại, ảo ảnh… đan vào nhau như những lớp sóng. Đối thoại với bóng có thể xem là hành trình xuyên qua bản đồ tâm hồn con người. Trong Ngẫm, chị viết: em không tìm được chiếc mặt nạ cho buổi chiều muộn/ hoàng hôn sẫm tím muốn cưới các vì sao. “Hoàng hôn muốn cưới các vì sao” là một thi ảnh mới mẻ. Nó không tuân theo logic tự nhiên, mà theo logic của tưởng tượng. Bằng cách ấy, Hà Hồng Hạnh đã giải phóng thơ khỏi ràng buộc hiện thực, để cơi nới hiện thực. Cũng với cảm thức ấy, Những chiếc bóng nghẹt thở là một ẩn dụ cho giấc mơ kiến tạo thế giới mới, thế giới khác: ai rồi cũng khác/ cây một nghìn năm có khóc trước những biến thiên cuộc sống/ những hình hài trong mơ/ liệu có kỳ dị khi bình minh rọi qua cửa…
Những “chiếc bóng nghẹt thở” kia, suy cho cùng, là biểu tượng của con người thời đại bị kẹt giữa thực tại trơ vữa xơ cằn cảm xúc cảm giác người. Không ngẫu nhiên mà tập thơ có cả Bài thơ cho AI – một đối thoại trực diện với trí tuệ nhân tạo: AI không biết viết lời thương như anh từng viết/ những sắc thái chỉ riêng trái tim. Giọng thơ ở đây vừa hóm hỉnh, vừa lạnh lùng. Nhà thơ nhận ra giới hạn của công nghệ – thứ có thể mô phỏng mọi điều, trừ cảm xúc. Đó cũng là lời tự khẳng định bản thể thi ca trong thời đại máy móc: chỉ con người – với trái tim và nước mắt – mới có thể “đối thoại với bóng”, mới có thể chiêm mộng hoá đời sống.
Về hình thức, thơ Hà Hồng Hạnh thiên về thể tự do, nhịp linh hoạt, ngôn ngữ tiết chế, ít dùng từ cầu kỳ. Nhưng đằng sau cái vẻ giản dị ấy là một cấu trúc tinh tế. Những khoảng trống, những chấm xuống dòng, những ngắt nhịp bất thường tạo nên một “hơi thở” đặc trưng, vừa đứt gãy, vừa ngân dài. Đặc biệt, chị sử dụng dày đặc các yếu tố thị giác và khứu giác: “ánh mắt rỗng không”, “mùi hương vụng dại”, “bụi thời gian loang trên giá sách”, “váng vất mùi hương chiều ấy”… Những hình ảnh này khiến thơ chị có độ “gợi” hơn “tả”, mở ra nhiều lớp liên tưởng.
Cách tổ chức bài thơ của Hà Hồng Hạnh gợi nhớ thủ pháp điện ảnh: những “cảnh cắt” nhanh, đột ngột, phi tuyến tính. Bài Lý giải chẳng hạn, như một chuỗi montage ký ức: những mảng màu hỗn độn/ ném lên bức tường ở cuối con đường đầy hoa chua me/ tim tím. Sự hòa trộn giữa nghệ thuật ngôn từ và các loại hình nghệ thuật khác khiến thơ chị gần gũi với các xu hướng thơ đa phương tiện ngày nay.
Đọc Đối thoại với bóng, thấy rõ hai khuynh hướng cùng tồn tại: một là nội cảm, nữ tính, tự sự; hai là siêu thực, tâm linh. Thơ Hà Hồng Hạnh không chỉ là thơ tình, mà còn là thơ của chiêm nghiệm hiện sinh.
Câu thơ “khóc cười giữa mông lung vụn vỡ” ở bài Hai mặt của sự sống mở đầu thi tập không chỉ là tự sự của nhân vật trữ tình, mà còn có thể xem như ẩn ngữ toàn tập thơ. Hà Hồng Hạnh đã khóc và cười giữa những mảnh vỡ của đời sống. Cái “mông lung” ấy không phải mơ hồ, mà là cõi thiêng nơi tâm hồn nữ giới tự soi chiếu, tự cứu chuộc.
Như vậy, tập thơ thực chất là một hành trạng tinh thần: đi từ “bình minh thoang thoảng mùi hương khởi thủy” (Khởi thuỷ) đến “cánh sen đang nở trong hồ” (Cánh sen) – một vòng luân hồi, nơi nỗi đau, niềm cô đơn được tẩy rửa bằng nước mắt, và thơ trở thành nghi lễ thanh tẩy: đóa sen cuối hạ rụng từng lớp cánh/ đến lớp cuối cùng nhẹ bẫng/ tan cùng mùi hương/ em thấy em là cánh sen đang nở trong hồ. Sau những đổ vỡ, mộng mị, giấc mơ, nước mắt, người đàn bà cuối cùng đã tìm được sự thanh lọc. “Cánh sen đang nở trong hồ” vừa là biểu tượng cho sự tái sinh, vừa là tâm thế thơ của chủ thể: một cách thơ đang định hình, đang thì hiện tại chưa hoàn kết, đang không ngừng “đối thoại với bóng” để trích xuất giọng.
Trong thời đại con người bị bao vây bởi công nghệ và nhịp sống gấp gáp, Đối thoại với bóng là một lời mời gọi quay về: quay về với “bóng mình”, với những “giấc mơ vụn”, với phần người còn nguyên sơ chưa kịp AI hoá. Và như thế, dù “thế giới đảo điên”, dù “gương mặt giả, nụ cười giả”, thì thơ vẫn là nơi “người đàn bà nhặt bóng mình đêm trăng” – nhặt lấy phần hồn mình, đặt lại giữa đêm đời. Ở đó, chủ thể thơ vừa khóc vừa cười, giữa mông lung vụn vỡ – mà kỳ thực, chính là giữa ánh sáng và bóng tối của cuộc người.

Hoàng Đăng Khoa