Tôi được mời tham dự Liên hoan Thơ Quốc tế Việt Nam lần thứ nhất năm 2025, diễn ra từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 10 năm 2025. Liên hoan quy tụ nhiều nhà thơ và học giả quốc tế, trong đó có: nhà thơ Indonesia Sastri Bakry, nhà thơ Era Nurza, nhà thơ Ấn Độ Monica Sharma và nhà thơ Úc Kuma Raj Subedi (gốc Nepal, sau này di cư sang Úc), cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam tại địa phương.
Đây là lần đầu tiên tôi đến Việt Nam, và tôi rất hài lòng với lịch trình do bạn bè trong cộng đồng văn nghệ sĩ Việt Nam sắp xếp. Trong số các nhà thơ quốc tế được mời có chị Sastri Bakry, một người bạn cũ của tôi. Cô ấy là một nhân vật nổi bật trong giới văn hóa Indonesia. Và qua những lần gặp gỡ, tôi phát hiện ra rằng ông Kuma Raj Subedi đến từ Úc cũng là một nhân vật văn hóa lỗi lạc.


Địa điểm tổ chức Liên hoan Thơ Quốc tế Việt Nam lần này là Đồi Nghệ sĩ, cách Hà Nội khoảng 40 km. Lễ khai mạc được tổ chức tại Nhà Nghệ sĩ trên sườn đồi xinh đẹp và yên bình, đã để lại ấn tượng sâu sắc. Các nhà thơ nước ngoài và Việt Nam lần lượt lên sân khấu ngâm thơ, mở màn cho lễ hội thơ quốc tế độc đáo này. Sau đó, những người tham dự đã đến thăm các triền đồi trà gần đó và một khu nghỉ dưỡng với những nét đặc trưng của rừng mưa nhiệt đới để nghiên cứu thực địa tại chỗ. Chúng tôi cũng tham quan xưởng vẽ và nhà của một số nghệ sĩ sống trên Đồi Nghệ sĩ. Những ngôi nhà này, nằm cheo leo trên sườn đồi hẻo lánh, mang đến tầm nhìn ngoạn mục ra quang cảnh xanh tươi. Sau đó, các buổi giao lưu diễn ra tại một khu nghỉ dưỡng gần đó, cũng giữa phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, trù phú của Việt Nam. Những bài hát truyền thống Việt Nam tuyệt vời, bao gồm một bài do nữ sĩ Bàng Ái Thơ sáng tác, đã được trình diễn. Những giai điệu tuyệt vời này thực sự cho phép việc trao đổi ý tưởng và văn học diễn ra trong một môi trường tuyệt đẹp, nơi thiên nhiên và văn hóa hòa quyện một cách liền mạch, tạo nên một trải nghiệm khó quên.

Điều này tương tự như truyền thống Trung Quốc cổ đại, lựa chọn sống và chiêm nghiệm trong một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, xa rời thành phố, tìm kiếm nguồn cảm hứng sáng tạo. Điều này tương tự như Cộng đồng Nghệ sĩ Tùng Trang ở Bắc Kinh, hay các nghệ sĩ sống trên dãy núi Hoàng Sơn và Tần Lĩnh nổi tiếng, hay thực hành tu luyện của Đạo giáo – một nơi ẩn dật khỏi sự hối hả và nhộn nhịp. Tìm kiếm những nơi mà thiên nhiên và văn hóa hòa quyện hài hòa để tu dưỡng bản thân là một phong tục cổ xưa.
Trong khi đó, tôi cũng gặp gỡ nhiều nhân vật văn hóa tiêu biểu của Việt Nam, bao gồm nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ Bàng Ái Thơ, hậu duệ của hoàng tộc trước đây. Bà là một nữ nhạc sĩ, nhà thơ, nhà tổ chức sự kiện văn học nghệ thuật, kiêm họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Bà đã chào đón chúng tôi tại khu nghỉ dưỡng bằng âm nhạc và những bài hát của mình. Kiều Bích Hậu, cũng là một nhà văn, nhà thơ, dịch giả nổi tiếng trong nước và quốc tế, là người đã mời tôi đến sự kiện này. Khánh Phương, một nhà văn kiêm dịch giả, là một người mẫu kiêm nhà văn cuốn hút; vóc dáng của chị toát lên vẻ đẹp tự nhiên. Mạc Khải Tuân là một học giả lớn tuổi, có thể viết tiếng Quan Thoại. Cũng có mặt tại sự kiện còn có nhà thơ nổi tiếng Trần Đăng Khoa. Trong buổi giao lưu với Nhà văn Việt Nam tại Hà Nội, chúng tôi đã gặp Trung tướng, nhà văn cảnh sát nổi tiếng Hữu Ước. Vị họa sĩ hài hước này, với ngôi nhà được trang trí bằng nhiều bức tranh tinh xảo, cũng đã tặng chúng tôi những cuốn sách của mình. Trong bữa tiệc chào mừng, ông đã chia sẻ câu chuyện cuộc đời mình, kể lại việc ông phục vụ trong quân đội khi còn là một thanh niên chiến đấu chống lại quân đội Mỹ, trải nghiệm sự căng thẳng và bận rộn của chiến tranh. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông đã đến với báo chí và văn chương. Giờ đây, ở tuổi này, ông có cái nhìn khách quan hơn về mọi thứ, tập trung cuộc sống vào hội họa và viết lách. Điều này thực sự mang lại nguồn cảm hứng, vượt qua ranh giới quốc gia, suy ngẫm về những trải nghiệm và sự trưởng thành của cuộc đời con người, khiến cuộc sống trở nên ý nghĩa và sâu sắc hơn. Ông cũng chia sẻ rằng ông có một bảo tàng nghệ thuật ở Hà Nội và mong muốn được giao lưu nghệ thuật quốc tế, tin rằng đời sống nghệ thuật nên là cốt lõi của chất lượng cuộc sống của mỗi quốc gia.

Tại Sự kiện Giao lưu với các nhà thơ, nhà văn tại Thi Nhân Các, Hà Nội, chúng tôi cũng gặp gỡ một số nhà văn nói tiếng Quan Thoại, trong đó có ông Hà Phạm Phú. Nói tiếng Quan Thoại trôi chảy, ông kể rằng mình đã học tại Học viện Pháo binh Nam Kinh vào những năm 1960. Trong các kỳ nghỉ, ông đã đến thăm Nội Mông, Tây An và Bắc Kinh. Giờ đã nghỉ hưu, ông thích viết lách. Một nhà thơ – dịch giả trẻ khác, Nguyễn Trọng Thắng – Linh Chi, cũng nói tiếng Quan Thoại trôi chảy và cho biết anh đã dịch một số tác phẩm thơ danh tiếng. Tôi được người bạn ở đây cho biết thơ của anh Nguyễn Trọng Thắng – Linh Chi rất đặc biệt và sâu sắc.

Trong thời gian ở Hà Nội, tôi đã đặc biệt nhờ một người bạn dẫn tôi đến phố đường tàu nổi tiếng. Tôi cũng đã đến thăm Văn Miếu, một điểm tham quan du lịch hơn một nghìn năm tuổi, một trường đại học cổ kính có liên quan tới tư tưởng Khổng Tử. Công trình kiến trúc cổ theo phong cách cung điện Trung Hoa này không chỉ nuôi dưỡng biết bao nhân tài của Việt Nam hơn một nghìn năm trước mà còn tiếp tục là một điểm đến du lịch nổi tiếng ở thủ đô, đóng góp đáng kể cho ngành du lịch của thành phố. Câu nói nổi tiếng của Nho giáo tại Văn Miếu: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi – một câu nói triết lý cổ xưa gợi lên nhiều suy ngẫm. Phía sau Văn Miếu là một đài tưởng niệm tưởng nhớ một học giả Nho giáo vĩ đại đã sống ở Việt Nam hơn một nghìn năm trước, và hai vị hoàng đế Việt Nam đã tích cực truyền bá Nho giáo.
Điều đáng nói là trong một buổi giao lưu văn hóa, BTC đã dẫn chúng tôi đến thành phố Yên Bái. Chúng tôi đã gặp gỡ và trao đổi ý kiến với các cán bộ văn hóa và trí thức địa phương. Các cán bộ văn hóa vô cùng hào phóng và hiếu khách. Họ nói với một số vị khách quốc tế rằng có thể tự do lựa chọn những bức ảnh mình yêu thích nhất từ phòng triển lãm và tặng chúng tôi làm quà. Sự hiếu khách nồng hậu này thực sự rất cảm động. Sau đó, họ đã sắp xếp cho chúng tôi tham quan một bảo tàng địa phương nổi tiếng, nơi trưng bày nền văn hóa phong phú và đa dạng của các dân tộc thiểu số. Sau đó, chúng tôi đến Hồ Thác Bà gần đó. Chúng tôi du ngoạn ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của Việt Nam, thưởng thức bữa trưa trên tàu. Chúng tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên xung quanh, lắng nghe những bản nhạc du dương và tham gia trao đổi ý tưởng với các trí thức đến từ nhiều quốc gia. Khung cảnh này thực sự thú vị và sảng khoái. Như được mô tả trong một bài thơ cổ Việt Nam thời nhà Nguyên: “Dòng sông trong vắt trải dài vạn dặm dưới bầu trời bao la, lá dâu và khói hương nghi ngút từ khắp các làng mạc. Người đánh cá ngủ say, chưa tỉnh giấc, giữa trưa thức dậy thấy thuyền phủ đầy tuyết.”

Trong những tòa nhà cổ kính trên phố phường Việt Nam, người ta có thể thấy chữ Hán. Người ta cũng có thể thấy những tàn tích của thời kỳ thuộc địa còn sót lại sau cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp năm 1885, chẳng hạn như bánh mì kiểu Pháp, kiến trúc kiểu châu Âu, nhà thờ và đường sắt. Trong khi đó, chữ viết Việt Nam, chịu ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc và phương Tây cổ đại và thời kỳ thuộc địa, sau này đã chuyển sang chữ Latinh.
Sau đó, cùng với nhà văn Việt Nam Kiều Bích Hậu, chúng tôi bay đến Thành phố Hồ Chí Minh ở phía Nam. Chúng tôi đã trao đổi ý tưởng với các nhà văn và trí thức địa phương tại tư gia của nữ sĩ Đặng Nguyệt Anh, điều này đã có tác động sâu sắc tới trái tim tôi. Một số nhà văn lớn tuổi có thể hát những bài hát Trung Quốc từ đầu những năm 1970. Sau đó, chúng tôi đã đến thăm lưu vực sông Mê Kông nổi tiếng tại Tiền Giang, vì đây chính xác là nơi con sông Mê Kông dài 4200 km chảy ra biển. Một mục đích khác của chuyến đi đến Thành phố Hồ Chí Minh của tôi là để tiến hành một cuộc điều tra trực tiếp về cửa sông Mê Kông hùng vĩ. Sông Mê Kông, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng, chảy qua sáu quốc gia. Ở Trung Quốc, nó được gọi là sông Lan Thương; bên ngoài Trung Quốc, nó được gọi là sông Mê Kông. Đây là một con sông lớn ở Đông Nam Á và là huyết mạch của người Chăm. Người Chăm, sống ở miền Trung Việt Nam, đã vượt sông Mê Kông trong các cuộc nội chiến thời cổ đại và chọn định cư ở Campuchia (trước đây là Campuchia). Ngày nay, một số lượng lớn người Chăm sống trên sông Mê Kông gần Phnom Penh, Campuchia. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi cũng đã đến thăm các đường phố và nhà thờ Hồi giáo có người Chăm sinh sống. Do gần gũi về địa lý và chung tín ngưỡng, người Chăm có lịch sử giao lưu lâu đời với thế giới Mã Lai. Đôi khi, họ còn được gọi là Chăm Melayu, nghĩa là người Chăm Mã Lai. Nhiều ngôn ngữ Chăm rất giống với tiếng Mã Lai. Ví dụ, làng (Kampong) được gọi là Kampong Cham (làng người Chăm) ở Campuchia. Nằm ở miền Trung Việt Nam, theo định vị hàng hải, nó chỉ cách đảo Hải Nam khoảng 300 km.

Là một học giả đến thăm Việt Nam, tôi tin rằng văn hóa truyền thống Trung Hoa đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam. Trong số các kệ sách tại khu nghỉ dưỡng riêng của nhạc sĩ Bàng Ái Thơ trên Đồi Nghệ Sĩ, tôi tìm thấy một cuốn thơ cổ Việt Nam có tựa đề “Nghìn năm Thơ Việt”. Cuốn sách ghi lại những bài thơ tinh tế của các nhà thơ Việt Nam trong hơn một nghìn năm, từ thời nhà Tống ở Trung Quốc cho đến ngày nay. Nó thật sự lôi cuốn. Nó cũng cho tôi cảm nhận về di sản văn hóa sâu sắc của Việt Nam và ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa cổ đại.
Đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh vào ban đêm, tôi cảm thấy đây là một đô thị quốc tế đầy hứa hẹn. Với sự quản lý tốt và xã hội hài hòa, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ sớm lấy lại vị thế là viên ngọc sáng của phương Đông.
Nhà thơ, nhà thư pháp, học giả Yusuf Liu Baojun
(Malaysia)