Tập thơ “Em là nơi anh tỵ nạn” (Nxb.Văn học, 2020) của Nhà nghiên cứu Lý luận văn học – Nhà thơ Trương Đăng Dung mang đậm tính triết lý Đông – Tây với những suy tư về thân phận con người, về thời cuộc và tình yêu. Đây là tập thơ đã tạo nên một “hiện tượng thơ” trên thi đàn Việt Nam, được nhiều bạn đọc yêu thích, quan tâm bởi với cách kiến tạo nên một thế giới thơ đầy ám ảnh, Trương Đăng Dung đã chia sẻ cùng bạn đọc những khắc khoải, ưu tư về cõi người luôn bất an, vô thường… nhưng con người chưa bao giờ nguôi khát vọng, hướng về miền ánh sáng… Dưới đây là lời bình của tác giả Cao Thị Hồng về bài thơ “Tin nhắn cho em” của Trương Đăng Dung (In trong tập Em là nơi anh tỵ nạn, Nxb. Văn học, H; 2020)
Tin nhắn cho em
Đêm nay trời đầy sao. Điều gì xẩy ra nếu mỗi ý nghĩ của anh về em có thể nở thành một bông hoa?
Thế giới này không còn chỗ bình yên, em là nơi anh tị nạn.
Kỷ niệm cứu rỗi chúng ta, nó lưu giữ thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người.
Anh muốn em là quá khứ để anh sống bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hi vọng vào tương lai; anh muốn em là tương lai để ký ức anh tự do bừng sáng.
Đêm nay trời đầy mây. Điều gì xảy ra nếu ký ức không cất giữ cuộc đời ta an toàn nhất?

Lời bình
Triết học Hiện sinh quan niệm: Con người khi được sinh ra trên cuộc đời là chấp nhận một hành trình bị “lưu đày” và tự “lưu đày “. Từ “lưu đày “ được hiểu đó là sự lênh đênh, chơi vơi, không thể biết phía trước của cuộc sống sẽ diễn ra điều gì bởi tất cả vốn “vô thường” biến ảo khôn lường…Và mỗi chúng ta, kể từ khi “mẹ sinh cho ta một kiếp người “ (TCS) đến lúc giã từ cuộc sống phải luôn luôn lựa chọn trải nghiệm, để vượt qua thử thách và khẳng định bản chất Người, khẳng định “nhân vị “ và ý nghĩa cuộc sống của mình.
Bài thơ Tin nhắn cho em của Trương Đăng Dung (In trong tập Em là nơi anh tỵ nạn, Nxb.Văn học, 2020), vẻn vẹn có 7 câu nhưng nén nhiều ý nghĩa, từ đó bạn đọc có thể bay bồng tưởng tượng, “đồng sáng tạo” cùng tác giả với lớp lớp thông điệp mang triết luận nhân sinh sâu sắc.
Như một tự sự, bài thơ bắt đầu bằng một câu kể – hỏi: Đêm nay trời đầy sao. Điều gì xảy ra nếu mỗi ý nghĩ của anh về em có thể nở thành một bông hoa?
Thời gian và không gian hiện lên qua câu thơ không có gì xa lạ: đêm, trời đầy sao – một đêm như muôn ngàn đêm đã qua đi trong dòng chảy thời gian vũ trụ. Nhưng sự khác lạ ẩn chứa trong thời gian và không gian này là chân dung một con người đang lặng lẽ một mình, ngắm bầu trời mênh mang, vời vợi, với dải ngân hà lấp lánh đầy bí ẩn cùng ăm ắp ưu tư: điều gì sẽ xảy ra nếu mỗi ý nghĩ của anh về em có thể nở thành một bông hoa?
Một sự hoài nghi tưởng như đã tồn tại từ lâu, và vào thời điểm hiện hữu này, câu hỏi bật lên như một sự tất yếu – cái gì đến nó sẽ phải đến vậy!
Nhưng, tại sao mỗi ý nghĩ về em lại nở thành “bông hoa” mà không phải là thứ khác? Có phải chăng bởi trong quan niệm văn hóa, hoa là biểu trưng cho cái đẹp, sự tốt lành, may mắn. Hoa mang lại cho con người sự ấm áp và cảm giác yên bình…Mỗi ý nghĩ của anh về em có thể nở thành một bông hoa huyền diệu, và hoa – sự yên bình, hạnh phúc…sẽ giăng phủ khắp không gian sống của em vì anh nghĩ về em rất nhiều, rất nhiều…
Sự mở đầu tự nhiên, cách diễn đạt vừa quen vừa lạ của tác giả đã gợi trí tò mò và đánh thức “tầm đón đợi” của bạn đọc, dẫn dụ bạn đọc khám phá “mê cung” tinh thần – tâm hồn “Người thơ” (chữ dùng của Hàn Mặc Tử) với những kiến tạo vô cùng tinh tế và phức tạp.
Tại sao “anh “ – nhân vật trữ tình lại bắt đầu câu chuyện của mình như vậy? Câu tiếp theo của bài thơ đã hé lộ nguyên nhân: Thế giới này không còn chỗ bình yên, em là nơi anh tỵ nạn.
Đây là một câu kể – khẳng định. Giọng điệu trầm lắng, nhịp thơ ngắt rõ ràng, dứt khoát. Thì ra là vậy, nguyên nhân của mọi nỗi khắc khoải, lo âu chiếm đoạt tâm trí, tinh thần “anh” là bởi “thế giới này không còn chỗ bình an “. Cái nhìn có cực đoan không? Hoàn toàn không! Cuộc sống ở bất cứ thời đại nào vốn cũng luôn hiện hữu với muôn biến ảo, bất trắc – điều này đã mang lại cho con người một cảm giác bất an,trống rỗng,cô độc;
Đó là một thế giới vẫn luôn diễn ra chiến tranh và sự hủy diệt tàn bạo; nạn khủng bố, xả súng man rợ cướp đi sinh mạng bao người vô tội vẫn không bị ngăn chặn, nhân loại ngày qua ngày khắc khoải khôn nguôi trước những biến thiên kinh hoàng của biến đổi khí hậu, dịch bệnh, cái ác và sự bạo tàn như đang phủ đầy bóng đêm lên đời sống từ thiên nhiên đến xã hội …Thế giới đã khiến“anh” phải đối diện với bao phi lý và sự thật đau lòng. Nhưng nguy hại hơn cả là “anh” rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin. Anh như một lữ khách trên hành trình thiên lý mà không xác định được điểm dừng…; không còn nơi nào an toàn nữa, đến bản thân mình “anh” cũng không thể hiểu nổi tại sao mình lại là kiếp người “lưu đày” trong muôn nỗi đau khổ, “anh” thấy mình chìm trong hoang mang, bất lực và thất vọng…”anh” buộc phải di dời , tìm nơi chốn để “tỵ nạn “. Trong sự hỗn loạn, bất an đó, Em như một “cứu cánh”, tiếp thêm cho “anh” sức mạnh, nâng đỡ tinh thần cho anh…Em đối với “anh” quan trọng và ý nghĩa vô cùng…!
Như vậy, chìa khóa để “giải mã” bài thơ này nằm ở hai từ khóa: Tỵ nạn và Em.
“Tỵ nạn” vốn là động từ diễn tả hành động của con người khi vì lý do đặc biệt nào đó như chiến tranh, loạn lạc… buộc phải rời quê hương xứ sở của mình để tìm về miền đất xa lạ – miền đất hứa, miền đất của khát vọng bình yên. Từ “tỵ nạn “ được tác giả sử dụng như một ẩn dụ tu từ, một cách “lạ hóa “ hiện tượng của đời sống, giúp bạn đọc mở rộng trường liên tưởng, từ đó có thể thấu hiểu sâu sắc tình cảnh bi đát cùng nội tâm mang bao trăn trở, nhức nhối, xót xa của một con người “lưu đày”, mang nặng tâm thức hiện sinh khi sống trong thế giới đầy bi kịch.
Em – biểu tượng của Tình yêu – Niềm tin – Nhân ái, Bao dung – Hy vọng. Chỉ có Em mới có thể giúp “Anh” – kẻ đang mất phương hướng, chơi vơi, cô độc, bé nhỏ giữa mênh mang vũ trụ tìm lại được nguồn năng lượng để tiếp tục sống và tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Trong thăm thẳm niềm đau về thế thái nhân tình, trong nỗi ưu tư và sự vật vã lựa chọn, cuối cùng Anh – Nhà thơ- Nhân vật trữ tình đã tìm thấy “lối thoát”:
Kỷ niệm cứu rỗi chúng ta, nó lưu giữ thứ ánh sáng làm cho gương mặt ta mãi mãi là gương mặt con người.
Đời sống của con người và sự phong phú của nó được đo bằng kỷ niệm. Kỷ niệm là một cái gì đó rất khó phai mờ trong ký ức . Trước sự nghiệt ngã của thời gian, thứ duy nhất còn lại đó chính là kỷ niệm. Trên hành trình cuộc sống của mỗi người và nói rộng ra là lịch sử phát triển của cả một dân tộc nào đó đều có những kỷ niệm vui, những kỷ niệm buồn… nhưng khi tất cả ngủ yên trong tiềm thức thì đều trở thành tiếng vọng da diết của quá khứ đầy huyền ảo, ám ảnh, nó tiềm tàng nguồn sinh lực, có sức mạnh cảm hóa, tác động sâu xa đến thế giới tinh thần thăm thẳm của con người. Có lẽ chính vì vậy, trong văn hóa ứng xử bao đời nay của nhân loại, bất cứ cá nhân hoặc dân tộc nào cũng nâng niu, coi kỷ niệm (hoặc thuộc giá trị tinh thần, hoặc thuộc giá trị vật chất) như “báu vật” thiêng liêng.
Ở đây, chúng ta tri nhận một sự tôn vinh “kỷ niệm” xúc động đến vậy: “Kỷ niệm cứu rỗi “ con người – Từ đây, có thể “đọc” ra thông điệp bao trùm toàn bộ câu thơ – phải chăng là lời nhắn nhủ: Nếu chúng ta đánh mất “kỷ niệm “ hoặc cố tình, hoặc vô tâm lãng quên kỷ niệm, tức là đánh mất quá khứ , phủ nhận , từ chối quá khứ, điều này đồng nghĩa với việc làm băng hoại những gì tốt đẹp nhất thuộc về giá trị văn hóa nhân văn – đó là những gì còn lại với thời gian, mãi mãi và duy nhất là thứ có thể giúp con người bảo lưu nhân tính, phát triển cuộc sống của Con Người theo đúng nghĩa trân trọng và tôn vinh Con Người, Con Người được sống trong hòa bình, tự tại, an yên, hạnh phúc. Và chính từ thông điệp này, bài thơ chuyển sang khát vọng:
Anh muốn em là quá khứ để anh sống bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hy vọng vào tương lai; anh muốn em là tương lai để ký ức anh tự do bừng sáng.
Ở đây, có ba cung bậc khát vọng:
Em – là quá khứ: để anh bình yên
Em – là hiện tại : để anh hy vọng
Em- là tương lai : để ký ức tự do bừng sáng
Cả ba chiều thời gian Em luôn ở vị trí chủ thể. Lấy “quá khứ “ để nuôi dưỡng “bình yên “; lấy “hiện tại “ để nuôi dưỡng “hy vọng “; lấy “tương lai “ để nuôi dưỡng “tự do”. Cách diễn đạt theo một logic rất Thơ, và chỉ có Thơ mới có thể giúp bạn đọc nhận ra chân lý: cuộc sống của con người vốn giản dị, gắn bó, có trước, có sau; có trân trọng cái này thì cái kia mới tồn tại và phát triển.
Tại sao anh “muốn “ như vậy? Bởi vì như trên đã xác quyết, Em chính là hình ảnh mang tính biểu tượng cho Tình yêu – Niềm tin – Nhân ái – Bao dung – Hy vọng. Theo dòng thời gian, thế giới khi nào, ở đâu cũng cần được duy trì trên tinh thần đó. Quá khứ, hiện tại, tương lai…mãi mãi cần đến nền tảng nhân văn, văn hóa để duy trì hòa bình, tình yêu thương và hạnh phúc cho con người và vì con người. Phải đớn đau, day dứt trước cuộc sống còn tồn tại nhiều nghịch cảnh và phải nặng lòng thương cảm , trân quý Con người thì nhà thơ mới có thể viết được những câu thơ trác việt, mang ý nghĩa triết luận sâu sắc như vậy!
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh: Đêm nay trời đầy mây và một câu hỏi: Điều gì xảy ra nếu ký ức không cất giữ cuộc đời ta an toàn nhất?
So với câu đầu tiên của bài thơ, sự chuyển biến của không gian vũ trụ đã bắt đầu đổi khác: không còn “trời đầy sao” nữa… mà đêm bây giờ đã “phủ đầy mây”… nỗi ưu tư vẫn tiếp diễn, chất chồng: điều gì sẽ xảy ra nếu ký ức không cất giữ cuộc đời ta an toàn nhất?
Thế giới bất an đến mức anh” đã phải “chạy trốn” , tìm “tỵ nạn” nơi Em và những kỷ niệm. Giả thiết đặt ra: nếu đến ký ức (tức là nơi thẳm sâu, bí mật nhất của tâm hồn, nơi lưu giữ “kỷ niệm “ ) cũng bất an thì sao? Rất may, đây chỉ là giả định – phải chăng dùng phép giả định để nhà thơ khẳng định tận cùng nỗi lo âu, trăn trở của mình về sự mong manh, hư ảo của những tồn tại trên cõi Người. Phải làm sao để giữ gìn “Em” – Tình yêu – Lòng nhân ái – Bao dung – Niềm tin- Hy vọng? Và trên hết đó chính là giữ gìn tồn tại của nhân tính trên thế giới này?!
“Tin nhắn cho em” là bài thơ mang đậm tinh thần hiện sinh của con người sống trong thời đại lịch sử nhiều biến động của nhân loại. Toàn bài thơ tràn đầy khắc khoải, ưu tư, lo âu về thân phận con người … nhưng không vì vậy mà con người tuyệt vọng. Sự lựa chọn hiện sinh tìm đến “Em là nơi anh tỵ nạn “ đó là một sự lựa chọn văn hóa – một ứng xử nhân văn có giá trị thức tỉnh lương tri và lương tâm của con người trong cơn cuồng phong ma mị của dục vọng. Bài thơ nén câu chữ đạt đến độ “ý tại ngôn ngoại “ (ý ở ngoài lời). Và có lẽ chính vì có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố trên nên Tin nhắn cho em của Trương Đăng Dung mang một vẻ đẹp riêng, hiếm có: vừa hiện đại, sang trọng, sâu sắc, vừa giản dị, chân thành, da diết, thiết tha… tất cả đã khiến bài thơ hấp dẫn, cuốn hút đối với bạn đọc, và có lẽ chính vì vậy nên câu thơ ấn tượng nhất bài thơ Em là nơi anh tỵ nạn đã được tác giả chọn làm nhan đề cho cả tập thơ./.