• Đọc theo cách của bạn
  • Bàn tròn & Chuyên đề
  • Không Gian Văn Học Số
Sign In
Logo Vanhocvietnam.net - Phong cách Wordmark Banner (Cập nhật)

vanhocvietnam

Nơi hội tụ tâm hồn Việt

.net
  • TRANG CHỦ
  • NHÀ VĂN & CUỘC SỐNG
    • Chân Dung Cuộc Sống
    • Đối Thoại Với Cuộc Sống
    • Nhà Văn Với Nhà Trường
  • NHÀ VĂN
    • Góc Nhìn Nhà Văn
    • Tác Giả Mới
    • Không Gian Văn Học Số
  • VĂN THƠ TRĂM MIỀN
    VĂN THƠ TRĂM MIỀN
    Show More
    Top News
    HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN
    1 Tháng 8, 2024
    Chùm thơ thiếu nhi song ngữ của tác giả Dương Khâu Luông
    25 Tháng 7, 2024
    Thơ Niê A Dũng
    1 Tháng 1, 2025
    Latest News
    Thơ Trần Việt Hoàng
    18 Tháng 8, 2025
    Thơ Trần Sang
    27 Tháng 6, 2025
    Truyện thiếu nhi Lê Trung Cường
    27 Tháng 6, 2025
    Thơ Tạ Thị Thảo
    8 Tháng 6, 2025
  • TIN VẮN HỘI NHÀ VĂN
    TIN VẮN HỘI NHÀ VĂNShow More
    Nhà văn Khuất Quang Thụy qua đời

    Nhà văn Khuất Quang Thụy qua đời chiều 5/3, sau thời gian…

    3 Min Read
    Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23: “Tổ quốc bay lên” tổ chức ở Hoa Lư – Ninh Bình

    Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23 mang chủ đề “Tổ quốc…

    7 Min Read
    Nhìn lại quá trình công tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024

    Ngày 12/12/2024, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam đã diễn…

    12 Min Read
    Khai mạc Kỳ họp thứ IX Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam

    Tagline

    3 Min Read
    Tiểu thuyết Việt Nam
    Toạ đàm thảo luận sách: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1925 – 1945: KHAI SINH VÀ TIẾN TRÌNH

    Viện Pháp tại Hà Nội và Nhà xuất bản Tri thức xin…

    9 Min Read
  • BẠN ĐỌC & LIÊN HỆ
Reading: Xóm Khe Cù
Share
  • Đọc theo cách của bạn
  • Bàn tròn & Chuyên đề
  • Không Gian Văn Học Số
Sign In
Logo Vanhocvietnam.net - Phong cách Wordmark Banner (Cập nhật)

vanhocvietnam

Nơi hội tụ tâm hồn Việt

.net
  • TRANG CHỦ
  • NHÀ VĂN & CUỘC SỐNG
    • Chân Dung Cuộc Sống
    • Đối Thoại Với Cuộc Sống
    • Nhà Văn Với Nhà Trường
  • NHÀ VĂN
    • Góc Nhìn Nhà Văn
    • Tác Giả Mới
    • Không Gian Văn Học Số
  • VĂN THƠ TRĂM MIỀN
    VĂN THƠ TRĂM MIỀN
    Show More
    Top News
    HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN
    1 Tháng 8, 2024
    Chùm thơ thiếu nhi song ngữ của tác giả Dương Khâu Luông
    25 Tháng 7, 2024
    Thơ Niê A Dũng
    1 Tháng 1, 2025
    Latest News
    Thơ Trần Việt Hoàng
    18 Tháng 8, 2025
    Thơ Trần Sang
    27 Tháng 6, 2025
    Truyện thiếu nhi Lê Trung Cường
    27 Tháng 6, 2025
    Thơ Tạ Thị Thảo
    8 Tháng 6, 2025
  • TIN VẮN HỘI NHÀ VĂN
    TIN VẮN HỘI NHÀ VĂNShow More
    Nhà văn Khuất Quang Thụy qua đời

    Nhà văn Khuất Quang Thụy qua đời chiều 5/3, sau thời gian…

    3 Min Read
    Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23: “Tổ quốc bay lên” tổ chức ở Hoa Lư – Ninh Bình

    Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23 mang chủ đề “Tổ quốc…

    7 Min Read
    Nhìn lại quá trình công tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024

    Ngày 12/12/2024, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam đã diễn…

    12 Min Read
    Khai mạc Kỳ họp thứ IX Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam

    Tagline

    3 Min Read
    Tiểu thuyết Việt Nam
    Toạ đàm thảo luận sách: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1925 – 1945: KHAI SINH VÀ TIẾN TRÌNH

    Viện Pháp tại Hà Nội và Nhà xuất bản Tri thức xin…

    9 Min Read
  • BẠN ĐỌC & LIÊN HỆ
Reading: Xóm Khe Cù
Share
Tìm kiếm
  • TRANG CHỦ
  • NHÀ VĂN & CUỘC SỐNG
    • Chân Dung Cuộc Sống
    • Đối Thoại Với Cuộc Sống
    • Nhà Văn Với Nhà Trường
  • NHÀ VĂN
    • Góc Nhìn Nhà Văn
    • Tác Giả Mới
    • Không Gian Văn Học Số
  • VĂN THƠ TRĂM MIỀN
  • TIN VẮN HỘI NHÀ VĂN
  • BẠN ĐỌC & LIÊN HỆ
Have an existing account? Sign In
Follow US
© 2024 Hội nhà Văn Việt nam I✦I Hợp tác & phát triển bởi VietNet Ltd
Văn học Việt Nam - Tiếng nói của những người yêu Văn học Việt > Blog > VĂN HỌC > Văn > Xóm Khe Cù
Văn

Xóm Khe Cù

Khánh Phương
Last updated: 9 Tháng 8, 2025 11:59 chiều
Khánh Phương
Share
SHARE

“Ai về xứ Nghệ quê ta, Sông Lam núi Quyết mặn mà tình quê…”

Nội tôi kể lại rằng, quê cũ của chúng tôi xưa kia là làng Tam Đa – một làng cổ yên bình giữa vùng trung du xứ Nghệ. Nhưng rồi chiến tranh ập đến. Những trận bom như trút lửa của giặc Mỹ đã thiêu rụi tất cả, để lại chỉ ba cây đa cổ thụ trơ trọi giữa nền đất cháy đen, như ba nén hương lặng thầm tưởng niệm một thời đã mất. Những năm đầu 1970, lo sợ những đợt oanh tạc phi nghĩa tiếp theo, dân làng buộc phải rời bỏ mảnh đất chôn nhau cắt rốn, dời làng lên vùng đồi cao và đặt tên là Khe Cù – như một dấu lặng nép mình dưới chân dãy Thần Vũ uy nghi. Nơi ấy là chốn đất trời hòa làm một qua những triền cát trắng hun hút gió Lào, là nơi từng hố bom vẫn còn loang lổ như những vết sẹo chưa kịp lành da. Tiếng kẻng báo động làm từ mảnh xác bom của giặc Mỹ vẫn lặng lẽ treo đầu ngõ – như một lời cảnh tỉnh không lời về những tháng năm đạn lửa. Đó là miền quê mà mỗi mùa lũ về, nước cuồn cuộn tràn qua vườn qua ngõ như cơn giận dữ của đất trời. Là nơi cái nắng có thể hun sạm mặt người, nứt nẻ từng bờ môi đứa trẻ, nhưng tình quê thì luôn mặn mà, da diết – cái tình thấm vào từng chén nước chè xanh, từng cái bắt tay thô ráp, và từng câu hò ví dặm khản giọng vọng qua bờ ruộng chiều buông. Một miền quê lam lũ, gian khó, nhưng chưa bao giờ cạn nghĩa tình.

Tuổi thơ tôi lớn lên từ những năm tháng cạn kiệt cơm gạo nhưng đầy ắp tiếng cười. Cái nghèo không lấy đi ước mơ, mà lại đổ thêm lửa vào lòng. Mỗi sớm mai, bốn anh em lũ lượt trèo lên chiếc xe đạp cà tàng, người cha tóc đã lấm tấm bạc ngồi trước, chở từng đứa đi thi học sinh giỏi cấp tỉnh – như thể chở theo cả hy vọng của dòng họ, của làng quê bé nhỏ. Ba tôi vẫn thường nói: “Phải học để thoát ra khỏi lũy tre làng, con à.” Nhưng tôi hiểu, ông không chỉ nói với chúng tôi – mà như đang nói với chính mình, với cả một thế hệ từng chìm trong khói súng và nghèo đói.

Dưới chân núi Thần Vũ, chiếc xe đạp cũ không đơn thuần là phương tiện, mà là chiếc thuyền chở ước mơ vượt qua biển đời mặn đắng. Nó chở giấc mộng của bốn đứa trẻ, và cả những hoài bão dở dang của người lính trở về – ba tôi, người đã từng đi qua bom rơi đạn nổ, từng chứng kiến cái giá của sự dốt nát. Trong ánh mắt của ba, tôi thấy cả một khát vọng cháy bỏng: không để con mình phải cúi đầu vì cái nghèo như ông từng cúi đầu trước họng súng kẻ thù.

“ …Ơ ớ hờ hơ hơ. Con sông của cả tuổi thơ. Tiếng mẹ ru xanh ngát đôi bờ. Ngày lớn lên chăn trâu tắm mát. Nắng câu hò ví dặm người thương. Ví dặm ơi ví dặm ơi câu hò năm ấy. Để cho ta say đắm lòng người. Bến sông kia với.…”

Con đường đến trường của chúng tôi ngày ấy cũng gập ghềnh, lắt léo như câu hò ví dặm mẹ thường ru bên võng trưa hè. Đó là con đường đất đỏ bazan, lởm chởm ổ gà và nứt toác như mặt ruộng sau mùa cày ải. Mùa mưa, bùn ngập mắt cá, vạt áo là lượt thành giẻ lau đất, vở học ố vàng vì nước ngấm từ đôi chân trần lấm lem. Mùa nắng, nắng hun cháy tóc, da đen bóng như bùn non gặp lửa. Đất nứt, môi nẻ, chân nứt như lòng bàn tay mẹ sau bao mùa nhổ mạ. Nhưng trong ánh mắt lũ trẻ quê tôi khi ấy – tất cả chỉ là một phần của trò chơi lớn mang tên “lớn lên”. Mỗi ngày đến trường là một cuộc phiêu lưu mới: có thách thức, có ngã sấp mặt, có cả tiếng cười ngửa cổ trời xanh. Những con đò qua sông, những chiếc cầu gỗ xiêu vẹo, những mái trường tróc vữa… tất cả đều in bóng tuổi thơ, trở thành chất liệu nuôi lớn ký ức và nghị lực của chúng tôi hôm nay.

Cơm độn khoai, cà pháo, xơ mít là món ăn quen thuộc của những ngày ấy – không phải vì khẩu vị mà vì phận nghèo. Ăn xong, cả bọn lại ùa ra đồng như chim vỡ tổ: thổi sáo trên lưng trâu, bắt tép bằng rổ tre, gỡ cua trong rãnh nước, chơi bịt mắt bắt dê trên bãi đất sau trường. Đám con trai lấy da ếch phơi khô, căng lên lon sữa đặc làm trống, rồi hò hét chạy vòng quanh như một đội quân vừa lập đại công. Chúng tôi nghèo thật, nhưng cái tình thì chưa bao giờ cạn. Chơi hết mình, thương nhau hết lòng, và nhớ nhau cho đến tận bây giờ – dù tóc đã chớm bạc, và đứa ở quê, đứa tha hương.

Có những buổi sáng mùa đông ở Khe Cù, sương mù dày đặc đến mức người đi trước chỉ thấy thấp thoáng bóng người đi sau. Mẹ tôi khi ấy ngày nào cũng gánh đôi quang, một bên củi khô, một bên lá chè xanh, vài buồng cau, đi bộ gần mười cây số xuống chợ Cấm. Chợ nằm ngay bên kênh nhà Lê, nơi từng in dấu vó ngựa và tiếng quân reo thời kháng chiến. Mỗi lần mẹ trở về, hương chè xanh mới hái còn thơm ấm, quyện với mùi khói bếp và mùi áo tơi rơm ướt sương. Mẹ đang gánh những ước mơ xa vời vợi…

Nhưng có một buổi sáng mùa đông thì khác hẳn – sáng ấy, chỉ có tôi ngồi sau ba trên chiếc Phượng Hoàng màu xanh lam đã mòn lốp. Chúng tôi băng qua truông Thần Vũ trong màn sương dày, gió thốc lạnh cắt da. Nghe tin tôi đi thi học sinh giỏi tỉnh, cả xóm ùa ra tiễn vui như hội làng đánh bắt cá sông Su, sông Đào. Có bà cụ dúi vào tay ba tờ 1.000, bác hàng xóm cho 2.000, vừa cười vừa dặn: “Đi cho giỏi, về dạy lũ nhỏ làng mình nhé!”. Tiếng chân dép lẹp xẹp chạy theo sau, tiếng gọi vọng trong sương, như luồng hơi ấm đẩy hai ba con vượt qua gốc sim tím còn ướt sương, qua con đường lổn nhổn ổ gà. Hôm ấy, tôi mang theo không chỉ giấy bút, mà còn mang theo kỳ vọng của cả làng – những người tin rằng, chỉ cần có học, sẽ tìm được một lối ra sáng hơn giữa cuộc mưu sinh khắc nghiệt.

“…Bao năm rồi cách trở dù nơi mô – Vang trong lòng tiếng à ơi ấu thơ. Nghe trong tim vơi đầy nỗi nhớ – Nhớ ngọt bùi, trong tiếng mẹ ru…”

Câu hò ấy như một lời khấn nguyện. Quê hương trong lòng tôi – chẳng phải ở núi non hay ruộng đồng – mà nằm trọn trong dáng hình của những người thân yêu nhất.

Trong ký ức ấy, có bóng em gái tôi – đứa con thứ hai trong nhà, người từng mơ một ngày đứng trên bục giảng, tay cầm phấn trắng viết thơ lên bảng xanh. Nó mê văn như mê hơi thở – thuộc lòng từng câu trong “Mực Tím”, từng trang “Hương Đầu Mùa”, từng dòng thư tay ngượng ngùng gửi cho bạn học cùng lớp. Mỗi mùa phượng về, em lại ép cánh đỏ vào vở, viết thơ cho mộng mơ mình chưa kịp lớn. Có lần, khi đọc đến đoạn Grigori trong Sông Đông êm đềm lặng người nhìn dòng sông cuộn trôi những ước mơ của đời mình, em khẽ bảo: “Ước gì mỗi người đều có một khúc sông riêng để gửi xuống đó những điều chưa kịp thành…

Nhưng giấc mơ ấy, cuối cùng cũng bị em gái tôi gấp lại – nhẹ như cách người ta cất một bức thư chưa kịp gửi vào ngăn bàn thời áo trắng. Năm ấy, em nghỉ học. Không một tiếng khóc, không lời từ giã bảng đen phấn trắng. Chỉ có bước chân lặng lẽ rời làng trong buổi sớm nhiều sương, và ánh mắt nhìn tôi – kiên định, dứt khoát mà nhức nhối như vết cứa:

— “Anh cứ thi đi. Em lo được.”

Cuối những năm 90 của thế kỷ trước, cơn di dân tràn qua xóm Khe Cù như con nước lũ cuối mùa, ào ạt cuốn theo bao phận người. Người người khăn gói rời quê, Nam tiến hoặc Tây Nguyên như về Gia Lai, Đắk Lắk… để tìm cơ hội lập nghiệp, để đổi đời. Sáng tiễn chân nhau ở bến xe huyện, những chiếc bao tải bạc màu, những rương gỗ buộc chằng bằng dây thừng xếp chật trên mui, tiếng khóc trẻ con hòa vào tiếng động cơ ì ạch rồi xa dần, mờ khuất sau màn bụi đỏ. Những ngõ nhỏ bỗng vắng tiếng cười trẻ thơ, nhiều mảnh vườn bỏ hoang, tiếng chó sủa vọng vào khoảng không hiu quạnh. Vậy mà gia đình tôi vẫn kiên định bám trụ nơi chân dãy Thần Vũ, giữ lấy nếp nhà, vườn cau, bụi tre, và cả mùi rơm rạ ngai ngái mỗi mùa gặt. Chính từ mảnh đất không rời bỏ tôi ấy, tôi mới có được điểm tựa để bước ra thế giới rộng lớn hơn, mang theo trong hành trang tiếng gà gáy sáng, vị khói bếp chiều, và bóng dáng cha mẹ lặng lẽ tiễn tôi ra ngõ.

Tôi thi, đậu vào Sư phạm Vinh, khoa Vật lý. Sáng hôm lên đường nhập học, cha đạp chiếc xe Phượng Hoàng cũ chở tôi ra ga tàu. Mẹ đi bộ theo một quãng dài, tay xách chiếc làn nhựa đựng gói xôi lạc và mấy quả trứng luộc, dặn đi dặn lại “ăn cho ấm bụng”. Tôi ngoái lại, thấy dáng mẹ đứng bên đường, đôi tay khum trước gió, mái tóc điểm sợi bạc lay động giữa tiếng còi tàu kéo dài, như sợi dây buộc chặt tôi với quê nhà.

Những năm tháng sinh viên, tôi sống như chạy đua với thời gian – ban ngày lên giảng đường, tối đến lại lặn lội khắp phố phường đi gia sư bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng thời chiến ba tôi để lại, dạy kèm cho mấy em nhỏ con nhà giàu có thành Vinh. Cuối tuần, tôi nhận bất cứ công việc nào có thể kiếm thêm – từ phụ hồ, bốc vác đến đào mộ thuê lúc 3 giờ sáng trong cái lạnh tê người của miền Trung. Có đêm về đến phòng trọ, người mỏi rã rời, bàn tay tê dại vì bê gạch, xẻ đất… nhưng tôi vẫn gắng gượng ngồi vào bàn học, nhẩm từng công thức vật lý giữa ánh đèn vàng hiu hắt. Tôi tự nhủ: chỉ cần còn được học, còn được bước tiếp – thì mọi nhọc nhằn đều xứng đáng. Vì tôi biết, đằng sau mình là ánh mắt hy vọng của mẹ, là sự hy sinh âm thầm của em gái, là cả một tuổi thơ nghèo nhưng chưa từng thiếu niềm tin vào ngày mai. Hè về, tôi cùng hai người bạn thân về tận Yên Thành dạy chữ cho đám trẻ con đủ loại lớp, đủ môn học-và dĩ nhiên, thù lao mỗi đứa một ngàn đồng trên buổi-chỉ vậy thôi chúng tôi đã qua thời sinh viên một cách mà đến giờ vẫn không tưởng tượng lại được hoặc không dám tưởng tượng lại. Sau bốn năm, cầm tấm bằng trên tay, tôi bắt đầu hành trình gieo chữ – từ đồng bằng ngập trắng phù sa đến những rẻo cao gió hun hút, nơi bản làng cheo leo bên vách núi. Mỗi vùng đất tôi đi qua, mỗi lớp học tôi đứng trên bục giảng, đều có bóng dáng em – như một người lặng thầm thắp đèn nơi hậu phương, soi sáng con đường tôi bước tiếp.

Còn em – giờ đã đủ đầy về vật chất và có một gia đình riêng ấm áp. Nhưng có những thứ vẫn âm thầm thiếu. Tôi biết. Bởi mỗi lần gặp lại lũ trẻ hàng xóm – những đứa tóc cháy nắng, mắt đen lay láy – khi chúng ngẩng lên hỏi em bằng giọng ngây thơ:

— “O Tâm đã từng đứng trên bục giảng chưa? Giống như cô giáo trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” á?”

Em không trả lời. Chỉ mỉm cười, rất nhẹ. Nhưng tôi nhìn thấy trong ánh mắt ấy có một khoảng trống chưa từng được lấp đầy – một khoảng trống của giấc mơ đã từng thắp sáng một thời tuổi trẻ, rồi lặng lẽ trôi xa như con thuyền nhỏ mờ sương mà người ta chỉ kịp thấy thoáng qua… ngoài xa. Em tôi cười rất nhẹ, nhưng ánh nhìn thì khựng lại như người vừa dẫm phải một vết rạn trong ký ức.

Bởi có những giấc mơ, dù được cất kỹ trong đáy ngăn ký ức, vẫn phát ra âm thanh khe khẽ – mỗi khi đời sống tưởng chừng đã yên ả. Em quay đi, lặng thinh. Như thể câu hỏi đó là vết cứa mảnh mai mà thấm lâu – nhắc về một giấc mơ đã từng có thật, và giờ chỉ còn lại trong ngăn ký ức – nơi phượng vẫn đỏ, nhưng mùa hè năm ấy thì đã xa rồi.

Mùa đông năm tôi học năm ba đại học, một buổi sáng mưa bụi lất phất như tro trời rơi rớt, bà nội tôi – người đàn bà nhỏ bé cả đời chỉ quen với bếp tro, nồi đồng, và chiếc khăn mỏ quạ sờn vai – lặng lẽ đi về phía bên kia dãy Thần Vũ. Không một lời trăn trối, không một hơi thở dài. Chỉ còn lại cái chõng tre cũ trống hoác phía dưới còn có cái ghế tre mà ông nội để lại thời những năm 80, cái bếp đất âm ấm mùi khói rơm bỗng lạnh đi như bị ai đó tắt ngang.

Tôi không về kịp.

Khi về đến nhà, bà đã nằm im trong chiếc quan tài phủ vải đỏ giữa nhà ngang, đôi tay khẳng khiu đặt chéo lên nhau như đang ôm một giấc mơ dở dang. Tôi cứ đứng đó, không khóc được. Nỗi đau đông cứng trong lồng ngực như cục đá chưa tan. Bà nội là người đầu tiên kể cho tôi nghe về Thạch Sanh, về cô Tấm, về chàng trai cõng mẹ qua sông – những câu chuyện mà sau này tôi mới hiểu ra, đó là cách bà gieo vào tôi lòng nhân, cái gốc của người.

Bà từng nhai trầu rất kỹ, răng đã móm nhưng vẫn đỏ au như bông gạo tháng ba. Bà hay thò tay vào ống tay áo rút cho tôi viên kẹo bột bé xíu, rồi xoa đầu thủ thỉ: “Ráng học cho giỏi, sau ni khỏi khổ như bà.” Câu nói ấy theo tôi suốt tuổi thơ, theo cả những đêm thức trắng chấm bài nơi xứ lạ. Căn bếp đất khi ấy bỗng trở thành nấm mộ của ký ức. Vắng tiếng chày giã trầu, vắng mùi khói bếp quện vào gió chiều, lòng tôi trống hoác một khúc quê.

Ba anh em tôi rời quê mẹ, tay trắng tìm đến vùng đất mỏ anh hùng – nơi nắng bụi, mưa than, khắc nghiệt mà đầy mới lạ. Tôi trở thành thầy giáo nơi trường làng, lặng lẽ gieo chữ giữa bao thiếu thốn, là người thầy của cậu em út đang ngồi ghế học trò. Cô em gái thứ ba – gầy gò nhưng đôi mắt sáng lửa – ngày ngày bươn chải để theo học Cao đẳng Nông Lâm, nuôi một ước mơ bền bỉ: sau này sẽ trở về dựng xây quê hương trên chính mảnh đất cằn cỗi lam lũ đã nuôi mình lớn. Trong gian khó, chúng tôi là chỗ dựa của nhau – ba ngọn đèn nhỏ cùng thắp sáng một niềm tin: rồi một ngày nào đó sẽ thay đổi cuộc sống. Em trai út của tôi – đứa em mà hàng ngày vẫn gọi tôi là “anh thầy”-vì tôi vừa là anh trai, vừa là người thầy đúng nghĩa đen của nó hồi còn công tác ở đất mỏ, khi tôi giảng giải mấy phương trình, định luật vật lý tại lớp 10A6. Sau này, em tôi là giảng viên của một trường đại học, từng ước mơ làm tiến sĩ và sắp chạm tới ước mơ ở đất bạn – song rồi cũng lặng lẽ gấp giấc mơ lại, như người ta cất chiếc áo tốt vào hòm gỗ ngày mưa.

Covid-19 đến như một cơn giông bất ngờ. Em từ Trung Quốc trở về, gầy rộc, mắt thâm quầng, tay xách theo cái vali rỗng mộng. Không một lời than vãn, em xuống ruộng cùng cha, lên rẫy với mẹ, cuốc cỏ trồng khoai, như chưa từng là một giảng viên trẻ tài năng được nhận học bổng danh dự. Có lần tôi hỏi: “Em có buồn không?” – Em chỉ cười: “Buồn chứ. Nhưng ở lại với cha mẹ, có khi cũng là một dạng thành tựu.”

Nhìn bóng em lom khom gánh nước tưới bầu, tôi thấy ánh lên một thứ gì rất lạ – không phải ánh của thất vọng, mà là thứ ánh sáng dịu dàng của sự chấp nhận. Cây bút em từng nâng niu giờ đã nằm yên trong ngăn bàn gỗ mít, nhưng em thì vẫn tiếp tục viết – bằng mồ hôi, bằng những bước chân trầm lặng nơi mảnh vườn quê cũ.

Ngày xưa ấy, tôi từng đem lòng cảm mến một cô gái học sau tôi 3 lớp, cùng trường – ánh mắt trong veo như sông Lam mùa lũ rút, giọng nói thì như thể có mật ong trong cuống họng. Thuở ấy, tôi nhát đến mức chỉ dám ép cánh phượng khô, viết những dòng thư tay bằng mực tím, rồi giấu kín trong trang vở không tên. Bức thư chưa bao giờ được gửi đi, như bao điều không nói thành lời của tuổi trẻ quê tôi.

Lũ học trò bây giờ không còn biết đến cái cảm giác hồi hộp của việc chờ một lá thư tay, không biết mùi giấy thơm, không từng ngồi cắn bút hàng giờ chỉ để viết hai chữ “Bạn thân” cho tròn nghĩa. Các em có điện thoại, có iPad, có mạng xã hội, nhưng chẳng có một mùa hè chăn trâu thổi sáo, chẳng có một lần rủ nhau chơi ô ăn quan dưới gốc xoan, chẳng có một buổi tối mời hàng xóm sang nhà uống chè xanh, gật gù bên ánh đèn dầu như một nghi lễ của tình làng nghĩa xóm.

Giờ đây, quê tôi đã khác xưa nhiều, khác và lạ nhiều lắm lắm, khác cả vị chè xanh thuở nào…

***

Xóm Khe Cù bé nhỏ ngày nào – nơi từng vang tiếng mẹ gọi về tắm, nơi từng đầy tiếng gà trưa và tiếng gió thổi qua bãi cỏ gà – giờ san sát nhà tầng, bê tông hóa từng lối nhỏ. Cây tre làng không còn rì rào kể chuyện cổ tích, kẻng họp xóm rỉ sét treo chơi vơi trên cột điện, và bếp lửa nhà ai cũng đã hóa thành bếp gas, lạnh tanh, vô cảm.

Không ai còn nhớ những ấm chè đặc quánh đắng hậu, không ai nhắc tiếng chó sủa vọng đêm, hay tiếng gọi í ới mỗi khi có đứa trẻ đánh rơi sách vở nơi bờ mương.

“Đêm trăng em thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con…”

May thay, cha mẹ tôi vẫn còn – như hai cột trụ cuối cùng chống đỡ mái ký ức đang lặng lẽ mục ruỗng dần theo năm tháng. Chúng tôi – mỗi đứa một phương trời, một phận mưu sinh – cứ hễ có dịp là lại thu xếp về. Không phải để thăm ruộng vườn, mà để ngồi lại bên ấm chè đắng, kể lại chuyện xưa như cách tự khâu vá linh hồn đã bị xé rách bởi nhịp sống thị thành.

Bao năm rồi cách trở, dù nơi mô, lòng tôi vẫn vang lên tiếng “à ơi” năm xưa, thứ âm thanh không phát ra từ cổ họng mà ngân lên từ những tầng sâu nhất của ký ức. Tiếng mẹ ru bên vành nôi, hòa với tiếng gió Thần Vũ lồng lộng và tiếng suối Khe Cù róc rách, đã trở thành bản nhạc nền của cả một thời thơ ấu lam lũ mà êm đềm. Có lúc giữa đêm khuya chốn thị thành, tôi bỗng giật mình thổn thức:

“…Bao năm rồi cách trở dù nơi mô – Vang trong lòng tiếng à ơi ấu thơ.
Nghe trong tim vơi đầy nỗi nhớ – Nhớ ngọt bùi, trong tiếng mẹ ru…”

Mỗi chữ, mỗi vần đều chạm vào ký ức như từng hạt mưa rơi xuống mái tranh xưa, làm sống dậy một thời đói cơm, cháy nắng, nhưng đầy ắp tình thân. Đó là những ngày không có mạng internet, không điện thoại, chỉ có những lời ru ngọt như cau vừa trầu vừa mới têm, tan trong giấc ngủ trẻ thơ như ngọn khói lam chiều quấn quyện lấy mái nhà tranh dột nát nhưng ấm lòng.

Dù dãy Thần Vũ vẫn sừng sững giữa trời, dù dòng Lam vẫn bền bỉ chảy qua bao thế hệ, thì lòng người vẫn chông chênh mỗi lần nhớ về tuổi thơ – nơi ta đã từng là đất, là gió, là một phần không thể tách rời của nhau.

Tết vừa rồi, tôi lại về quê thăm ba mẹ. Vẫn là con đường làng năm nào, nhưng cây bàng đầu ngõ đã không còn, thay bằng biển quảng cáo du lịch. Mái nhà ngói đỏ cũng được thay bằng tôn lạnh, chống nóng. Nhiều cụ trong xóm cho từng cho tôi 1000 đồng lúc đi thi thuở nào nay đã về sau núi Thần Vũ. Nay chỉ còn dáng mẹ – nhỏ thó, còng lưng mà vẫn nhanh nhẹn quét sân, đun nước – là vẫn như xưa.

Chiều mùng ba Tết, trước lúc ra xe, tôi nhìn mẹ, khẽ hỏi:

— Mẹ ơi, giờ đây mẹ ước điều gì nhất ạ?

Mẹ mỉm cười, ánh mắt xa xăm như nhìn xuyên qua dãy Thần Vũ mờ sương, rồi chậm rãi nói:

— Mẹ thích các con cứ còn nhớ đường về nhà là được.

****

Tôi đứng lặng.

Câu trả lời ấy nhẹ như gió xuân nhưng nặng trĩu như một đời người.

Phải rồi, sau tất cả, điều cha mẹ mong không phải là vàng bạc hay vinh hoa – mà là một tiếng chân quen trên bậc thềm cũ, là tiếng cười ấm giữa gian bếp tro, là hơi ấm của những đứa con đã đi xa nhưng vẫn luôn nhớ đường trở về. Và tôi chợt hiểu: Quê hương không phải là một nơi chốn – mà là nơi một người mẹ vẫn đợi ta nơi cuối con đường.

Hoàng Anh Tuấn

TAGGED:Hoàng Anh Tuấntác giảtác phẩmTruyện ngắnXóm Khe Cù
Share This Article
Twitter Email Copy Link Print
Previous Article Tác giả Phan Thành Đạt CUỐI GIẤC CHIÊM BAO
Next Article Tọa đàm về Hành trình vượt bóng tối để tỏa sáng của Bác sĩ Bùi Tuyết Mai
Leave a comment

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài nổi bật

Thơ Lý Hữu Lương

Lý Hữu Lương sinh năm 1988 tại Kiên Thành – Trấn Yên – Yên Bái, dân tộc Dao. Hiện anh…

By Đường Uyên 6 Min Read
Thơ Trần Việt Hoàng

Trần Việt Hoàng sinh năm 2002 tại Xã Trường Lưu, tỉnh Hà…

6 Min Read
Chùm thơ tác giả Thanh Thường

EM – DẢI LỤA TÍM GIỮA THÀNH PHỐ KHÔNG NGỦ Embước qua…

4 Min Read

Tác giả

Võ Thị Xuân Hà 1 Article
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà sinh tại Hà Nội.…
Sao Khuê 3 Articles
Chia sẻ một chút thông tin về bạn. Những thông…

Ý kiến

Thơ Trần Việt Hoàng

Trần Việt Hoàng sinh năm 2002 tại Xã Trường Lưu,…

18 Tháng 8, 2025

CÓ MỘT HẠNH PHÚC GỌI LÀ BUÔNG TAY

Có những ngày chênh vênh lạc…

16 Tháng 8, 2025

THƠ ANNA AKHMATOVA (LB Nga)

Nguyễn Xuân Hòa (giới thiệu và…

13 Tháng 8, 2025

Xóm Khe Cù

"Ai về xứ Nghệ quê ta,…

9 Tháng 8, 2025

CUỐI GIẤC CHIÊM BAO

Tôi giật mình vì tiếng cá…

9 Tháng 8, 2025

You Might Also Like

NHÀ VĂN & CUỘC SỐNGNHÀ VĂN & CUỘC SỐNG

THƠ VÂN ANH, TỪ BẢN THỂ NỮ ĐẾN TƯ TƯỞNG DÂN TỘC, MỘT CẢM NHẬN LIÊN THẾ HỆ

(Võ Thị Như Mai đọc VÂN ANH - TUYỂN TẬP THƠ, NXB Nghệ An, 2023) 1. TỪ TRO THAN THI…

25 Min Read
Thơ

Thơ – Tác giả Hồng Quang

MÙA THU EM ĐẾN TRƯỜNG(Thân tặng ngày khai giảng năm học mới!) Thu sang hoa cúc nở vàngTrời xanh mây…

3 Min Read
BẠN ĐỌC VỚI TẠP CHÍ

Cẩn trọng khi tìm người ở ghép: Lời cảnh báo cho tân sinh viên mùa nhập học

Bao giờ cũng vậy, khi bước vào đầu năm học mới, một lượng lớn tân sinh viên (TSV) từ mọi…

7 Min Read
Thơ

Thơ – Tác Giả Lê Văn Lạo

THƯƠNG BẤY THÁNG NĂM Thương bấy tháng năm đời dễ nên đờiMọi nhòa nhạt, thôi dần quan trọngLòng đố kỵ,…

5 Min Read
Văn học Việt Nam - Tiếng nói của những người yêu Văn học Việt

TỔNG BIÊN TẬP: TRẦN ĐĂNG KHOA

Phó tổng biên tập: Nhà văn VŨ ĐẢM
Đặc trách website: Nhà văn KIỀU BÍCH HẬU

Ban biên tập: NGUYỄN CHU NHẠC, NGUYỄN HỮU HÀ, BÙI HOÀNG TÁM, HOÀNG ANH SƯỚNG, LÊ VĂN VỴ
Giấy phép xuất bản: 232/GP-BTTT ngày 27/4/2021

Tòa soạn: Số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội
✦Email: kieubichhau@gmail.com
✦Tel: 094 735 8999

Văn phòng đại diện tại Bắc miền Trung: LÊ VĂN VỴ
Địa chỉ: Đông Tiến – Thạch Trung – Tp. Hà Tĩnh – Tỉnh Hà Tĩnh   Tel: 0964981345 

Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh: PHẠM HÙNG PHONG
Địa chỉ: Golden King Tower, 15 Nguyễn Lương Bằng – PMH – Q. 7 – Tp. Hồ Chí Minh Tel: 028 710 88879

Văn phòng đại diện tại Tiền Giang: TRẦN ĐỖ LIÊM
Địa chỉ: Số 744 Lý Thường Kiệt – Phường 5 – Tp. Mỹ Tho – Tiền Giang  Tel: 0913962863

Văn phòng đại diện tại Bạc Liêu: LÊ THANH QUANG
Địa chỉ: 44 Phạm Ngọc Thạch- P.1 – Tp. Bạc Liêu  Tel: 0939269779

News

  • BÀI NỔI BẬT
  • NHÀ VĂN & CUỘC SỐNG
  • TIN VẮN HỘI NHÀ VĂN
Tạp chí Nhà Văn & Cuộc sống - Hội Nhà văn Việt nam © 2024 I✦I Hợp tác & phát triển bởi VietNet Ltd
Welcome Back!

Sign in to your account

Lost your password?