Tháng Mười hai lại về, mang theo cái rét ngọt đầu đông và hương trầm nồng ấm của những ngày cuối năm. Đặc biệt, ngày 22 tháng 12 năm 2025 này, trong không khí kỷ niệm 81 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, là một cán bộ quân hàm Đại tá, lòng tôi bỗng trào dâng một niềm xúc động và tự hào khôn tả khi nghĩ về các bậc tiền bối đã dìu dắt chúng tôi có được thành quả của ngày hôm nay. Trong dòng hồi tưởng miên man đó, những dấu ấn về Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, một vị tướng tài ba, một người thầy đáng kính, lại hiện lên rõ nét và sâu sắc hơn bao giờ hết.
Mối cơ duyên của tôi với Tướng Hiệu bắt nguồn từ ông ngoại tôi, người từng công tác tại Sư đoàn 320 B (nay là Sư đoàn 390, Binh đoàn 12). Qua mối quan hệ thân tình giữa hai thế hệ đi trước, tôi may mắn được biết và nhận sự dìu dắt của ông từ khi còn trẻ.
Khi tôi quyết định nối nghiệp cha ông vào quân đội, Tướng Hiệu đã nhìn thấy tiềm năng và định hướng cho tôi đi học sau đại học tại Liên bang Nga. Đó là một cơ hội, một bước ngoặt quyết định tương lai của tôi. Không phụ lòng tin cậy của ông, tôi đã tích cực học tập, nghiên cứu, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, và vinh dự nhận được giải thưởng quốc tế tại Nga.

Trở về Tổ quốc, dưới sự quan tâm và tiếp tục giúp đỡ của Tướng Hiệu, con đường binh nghiệp của tôi ngày càng được định hướng rõ, tôi đã chuyển về công tác tại Cục Khoa học quân sự, Bộ Quốc phòng. Suốt những năm tháng ấy, tôi có cơ hội được gần gũi và học hỏi Tướng Hiệu nhiều hơn. Đặc biệt, từ năm 2010, khi ông được trao bằng Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Quân sự Nga và đặt văn phòng tại Hà Nội, tôi đã vinh dự trở thành cộng tác viên thường xuyên, làm việc cùng ông tại văn phòng Viện sĩ cho đến tận bây giờ.
Hơn sáu thập kỷ binh nghiệp của Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu là một pho sử sống, một sự nghiệp trọn đời vì sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông đã tham gia trực tiếp vào bốn chiến dịch lớn, ghi dấu những mốc son lịch sử:
Chiến dịch Mậu Thân 1968.
Chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971.
Chiến dịch Mùa hè đỏ lửa 1972.
Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Năm 1975, trên cương vị Trung đoàn trưởng, ông đã lãnh đạo trung đoàn thực hiện cuộc hành quân thần tốc kéo dài 1.700 km từ Tam Điệp để kịp thời tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ông được tuyên dương Anh hùng Quân giải phóng miền Nam tại Quảng Trị ở tuổi 26 và được phong quân hàm tướng ở tuổi 40. Với bảy huy chương các loại trong chống Mỹ và nhiều huy chương danh giá của các nước bạn như Huy chương Liên minh chiến đấu, Huy chương Hữu nghị (Nga, Cuba, Lào), đặc biệt là Huy chương Đại tướng quân của nhà vua Campuchia, cùng vô số giải thưởng trong nước và quốc tế, cuộc đời ông là hình ảnh mẫu mực về một sĩ quan toàn diện.
Trong thời bình, những cống hiến của ông càng tỏa sáng. Ông giữ vị trí Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Tìm kiếm Cứu nạn Quốc gia và bảy năm là Phó Ban Phòng chống Bão lụt Trung ương. Chính từ thực tiễn chiến đấu và công tác phòng chống thiên tai, Tướng Hiệu đã đề xuất ra “phương châm 4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ). Phương châm này sau đó đã được Quốc hội luật hóa và đi vào đời sống, cứu giúp hàng triệu người dân, thậm chí còn có bộ phim nổi tiếng mang tên “Vị tướng 4 tại chỗ” được trình chiếu rộng rãi.

Một trong những di sản quý giá nhất mà Tướng Hiệu để lại chính là tri thức. Ông đã viết 10 cuốn sách có giá trị, một số được dịch ra tiếng Anh, tiếng Nga, và đã dành tặng hơn 50 ngàn cuốn sách cho các thư viện, trường học, bạn bè trong nước và quốc tế. Khi báo chí phỏng vấn, ông từng nói: “Tôi không có tài sản gì nhiều, chỉ có những cuốn sách quý”. Đó là tài sản vô giá mà ông muốn truyền lại cho thế hệ mai sau.
Dù tuổi đã gần 80, nhưng tinh thần phụng sự của ông không hề suy giảm. Ông đã đảm nhận ba nhiệm kỳ Ủy viên Trung ương Đảng (Khóa VIII, IX, X), và tiếp tục công tác tại văn phòng Viện sĩ suốt ba nhiệm kỳ từ năm 2010 đến nay, miệt mài cống hiến cho khoa học quân sự nước nhà và thế giới. Hơn 10 năm phụ trách công tác đối ngoại quốc phòng Việt Nam và 9 năm phụ trách Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga đã giúp ông có những kinh nghiệm sâu sắc về hợp tác quốc tế, đặc biệt trong ba hướng nghiên cứu quan trọng: Độ bền nhiệt đới, Y sinh nhiệt đới, và Sinh thái nhiệt đới—góp phần lớn vào việc bảo vệ môi trường và giải quyết hậu quả sau chiến tranh.
Những dấu ấn của Tướng Hiệu đã in đậm trong tôi, từ sự nghiệp khoa học cho đến những bài học về lòng nhiệt huyết phụng sự Tổ quốc. Hiện nay, Ban Chỉ đạo Kỷ lục Quốc gia đang xem xét trao Kỷ lục Quốc gia cho “Phương châm 4 tại chỗ” của ông. Điều đó càng khẳng định tầm vóc và giá trị nhân văn mà vị tướng này đã đóng góp cho đất nước.
Trong dịp 22/12 này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc nhất đến Tướng Hiệu, người đã dành trọn cuộc đời bình dị mà tràn đầy ý nghĩa của mình cho Quân đội và Nhân dân Việt Nam.
Tác giả: Đại tá Vũ Mạnh Cường