Tôi sinh ra ở vùng quê nghèo Điện Bàn, nhưng có nhiều anh hùng, chí sĩ, danh sĩ và liệt sĩ, trong đó nhiều liệt sĩ nhất nước. Thời chiến tranh khốc liệt, cha tôi theo kháng chiến, bị địch bắt tù đày, tôi phải theo ngoại chạy dạt về Thanh Hà, Hội An buôn bán cau khô kiếm sống, rồi sau đó theo mẹ chạy tản cư ra Thanh Khê, Đà Nẵng vừa bán báo, vừa lượm rác Mỹ để có tiền nuôi thân, nuôi em, đi học. Sau ngày Đà Nẵng giải phóng, tôi và gia đình về quê làm nông dân, chân đất, đi học trường Trung học Điện Bàn. Rồi đi học ở Đại học Sư phạm Quy Nhơn khoa Ngữ Văn. Sau đó ra trường dạy học ở trường mang tên chí sĩ yêu nước Nguyễn Duy Hiệu – thủ lĩnh phong trào Nghĩa hội Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
“Tiếng súng nổ vang trên bầu trời biên giới. Toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới” Tôi xung phong nhập ngũ trở thành phóng viên báo Quân khu 5, từng có mặt ở Mặt trận 579, chiến trường giúp bạn Campuchia. Rồi trở thành phóng viên báo Quân đội nhân dân, Phó trưởng đại diện NXB Văn Học, Trưởng đại diện NXB QĐND tại miền Trung Tây Nguyên. Khi về hưu, tôi làm Trưởng đại diện báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) các tỉnh miền Trung Tây Nguyên. Hơn 36 năm mặc áo lính, gần 40 năm làm báo, tạp chí, trong đó có nhiều năm làm xuất bản Văn học, Quân đội.
Trong tập trường ca “Sóng Cổ Cò vỗ nhịp” của mình, tôi viết: Tôi sinh ra ở làng Đa Hòa/ Làng nhiều lúa các cụ xưa bảo thế/ Thời ly loạn chiến chinh bà tôi kể/ Cây lúa cũng như người gầy guộc tong teo/ Người bỏ làng lên phố buổi gieo neo/ Tôi bán rao tuổi thơ mình theo lời mời kem cây, đánh giày, bán báo. Chữ học đầu tiên không phải a, b mà là cơm cháo/ Chân sáo non chai dạn khắp ngả đường/ Tôi thèm có tình thương, thèm đi học thợ/ Lớn lên, không nghĩ sẽ làm thơ, sẽ thành chiến sĩ/ Chính cuộc sống với nghiệt ngã đắng cay dạy tôi điều bình dị/ Muốn cháy hãy đốt lên/ Những khát vọng đớn đau day day trên đầu ngọn tóc/ Lúc trái tim muốn hát lên hay thầm khóc/ Là lúc bắt đầu của những câu thơ…
Thực ra, tôi manh nha viết trường ca, từ năm lớp 11, khi là học sinh đi theo đoàn giáo viên dạy Lịch sử trung học toàn quốc thăm nhà anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi. Bài thơ dài mang tên “Về quê anh Trỗi”, được khen, được đọc trên Đài Phát thanh quê nhà huyện Điện Bàn. Do quê nhà lũ lụt, bài thơ chép tay bị thất lạc, chỉ còn một đoạn trong trí nhớ: Ai về Thanh Quýt, Điện Bàn/Cho tôi nhắn hỏi cụ Thoàn (cha anh Trỗi) khỏe không?/ Nhớ thương con lặn vào trong/Một thợ điện -một người con anh hùng/Thanh Quýt thuốc lá trồng vun/Địa linh nhân kiệt đúc hun bao đời/Nguyễn Hữu Dũng gương sáng ngời/Thượng tướng quân được bao đời khắc ghi/Từ danh sĩ Trương Công Hy/Thượng thư lưỡng bộ uy nghi đại thần/Thu Bồn nhà thơ dấn thân/Hào hoa phóng khoáng nhân dân yêu người/Đến Điện Thắng, giặc ngậm ngùi/Du kích bắn tỉa chôn vùi ngoại xâm/Có đội diệt ác trừ gian/Quân dân đánh Mỹ thế hệ vàng năm xưa/Qua chiến tranh, qua nắng mưa/Trận đồn Ngũ Giáp vẫn chưa phai mờ/Anh hùng từ thuở ấu thơ/Lê Tự Nhất Thống phất cờ chiến công/Xóm Rừng đất rạng Thành đồng/Mẹ Nguyễn Thị Thứ một lòng sắt son/Hi sinh một rể, chín con/Thêm cháu ngoại gái héo hon lòng già/Chết vì đồng bào quê nhà/Chết cho Tổ quốc thăng hoa sống còn/Nguyễn Văn Trỗi sáng nước non/Lớp lớp tuổi trẻ tiền đồn xông pha/Riêng em, đi học đường xa/Theo gương anh, gắng thăng hoa học hành/Mong thành công, mong thành danh/Khơi niềm khát vọng đua tranh với đời/Nhân hòa, địa lợi, thiên thời/ Quê nhà anh Trỗi gọi mời canh tân…”. Được sự khích lệ của nhà thơ Thu Bồn (Ông nói: Mẹ Nguyễn Thị Thứ có 9 con trai liệt sĩ ở quê tao, tao chưa viết được; tao cảm ơn mày đã viết trường ca “Thưa mẹ phía trăng lên”, nói về bà mẹ anh hùng vĩ đại nhất nước đã có công sản xuất, nuôi con, nuôi quân đánh giặc, hi sinh, chở che, đùm bọc cán bộ, bộ đội trong hai cuộc kháng chiến )được sự động viên của nhà thơ, dịch giả Bùi Xuân (Anh bảo, Dũng nên in toàn tập trường ca để lại dấu ấn quá trình sáng tác của mình) đến nay tôi xuất bản 11 trường ca, mang tên: Lê Anh Dũng 11 trường ca).

Ngoài trường ca “Giữa xanh thẳm đại ngàn”, NXB QĐND, còn lại 10 trường ca: “Thưa mẹ, phía trăng lên”, “Dòng sông di sản”, “Về xứ Đồng Long”, “Giữa mùa đại dịch”, “Có một Bình Dương”, “Sóng Cổ Cò vỗ nhịp”, “Già Kháng ở Trà Khê”, “Khúc bi tráng bất tử”, “Trần Quý Cáp – chí sĩ làng Tân học”, “Thanh Chiêm, dinh trấn ta về” đều viết về mảnh đất, con người xứ Quảng, Đà Nẵng (Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chí sĩ yêu nước, những người kháng chiến, các dòng sông Thu Bồn, sông Hàn, Cổ Cò. Tôi viết để trả nợ, trả ơn. Trả nợ đời, nhất là nợ máu xương của bao người ngã xuống, trong đó có đồng bào tôi, bà con tôi, đồng đội tôi. Trả ơn cha mẹ, quê hương và bao người đã dìu dắt, giúp đỡ, cưu mang tôi trong nghèo khó, học tập, lúc lính tráng, viết lách, khi ốm đau thập tử nhất sinh. Trong ba tháng nằm viện cứu, chữa trọng bệnh, tôi cũng gượng mình tập trung hoàn thành xuất bản tập sách trường ca “Lê Anh Dũng 11 trường ca”.
Tôi tự hào mình ở quê hương có truyền thống yêu nước hiếu học, học giỏi (Dân gian tương truyền, nước ta có ba ông đồ, đồ Nam, đồ Nghệ và đồ Quảng) chiếc nôi của chữ Quốc ngữ – Dinh trấn Thanh Chiêm (các giáo sĩ Francisco Pina, Alexandre Rhodes học lời ăn tiếng nói của cậu bé họ Lê phiên theo âm La tinh để sáng tạo ra chữ Quốc ngữ), có trường Đốc, nơi đào tạo các nhà ái quốc, chí sĩ, danh sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… (bộ ba danh nhân xứ Quảng với tinh thần “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh). Nhờ đọc các trường ca “Sóng chụ xôn xao”, “Đẻ đất đẻ nước”, các hơ mon sử thi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, học tập các nhà thơ đi trước như Khương Hữu Dụng, Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Quế, Trần Mạnh Hảo, Trần Anh Thái, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Việt Chiến… tôi viết trường ca theo cách của mình. Có tập, tôi viết theo kiểu truyền thống như câu chuyện kể có đầu có cuối, có tập viết theo lối đồng hiện xen kẽ hiện tại, quá khứ và tương lai. Tôi đưa lời ăn tiếng nói, ca dao, dân ca, bài chòi, hát nói, thậm chí hô lô tô, đồng dao xứ Quảng, truyền thống lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa tâm linh xứ Quảng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vào trong trường ca của mình.
Tác giả: Lê Anh Dũng